(Quanlynhanuoc.vn) – Công chức cấp huyện làm việc trong các phòng, ban chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân quận/huyện, đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban đó. Chất lượng cán bộ, công chức là chỉ tiêu tổng hợp, đánh giá phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực và khả năng thích ứng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Theo khoản 2, Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019, quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.”. Các phòng, ban chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) quận/huyện chính là các đơn vị thuộc cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, công chức tại các đơn vị này được gọi là công chức hành chính nhà nước.
Chính quyền cấp huyện có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị – hành chính; là cầu nối trực tiếp của hệ thống chính quyền nhà nước với cấp cơ sở và Nhân dân; thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương theo thẩm quyền được phân cấp, bảo đảm các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, được triển khai thực hiện trong cuộc sống.
Những yêu cầu chất lượng công chức cấp huyện
Thứ nhất, yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức công chức.
Phẩm chất, bản lĩnh chính trị là yêu cầu quan trọng, cơ bản nhất đối với đội ngũ công chức (ĐNCC) nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đó là sự trung thành và bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu là con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn, nhiệt tình cách mạng, gương mẫu, tận tụy, có tinh thần và ý thức trách nhiệm cao với công việc, hết lòng hết sức vì sự nghiệp của Nhân dân, tận tâm, tận chí phục vụ Nhân dân.
Để thực sự là “công bộc” của dân, ĐNCC ngoài tài năng và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phải có đầy đủ chuẩn mực đạo đức “cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” của người công chức thời kỳ mới. Đặc biệt, công chức phải có “cái tâm”, nghĩa là phải công tâm, trung thực, ngay thẳng, công bằng vì việc chung, không thiên vị, công minh chính đại, thiết diện vô tư, tất cả vì lợi ích công, lợi ích chung của tập thể, của xã hội, của nhân dân.
Các yêu cầu về chuẩn mực đạo đức của công chức trong bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ nhằm củng cố địa vị pháp lý của cán bộ, công chức (CBCC) trong xã hội mà còn tạo sự sự tôn trọng, tin tưởng của Nhân dân.
Thứ hai, yêu cầu về văn hóa công chức.
Văn hóa là hình thức ứng xử văn minh, khoa học, nhân ái và dân chủ của mỗi công chức, của ĐNCC trong mỗi quan hệ. Văn hóa là cơ sở để hình thành tác phong, phong cách và lối sống, là nền tảng để tạo nên tư chất, cốt cách của người công chức. Nhờ có văn hóa, người công chức biết cư xử đúng mực, dân chủ và văn minh hơn trong thực thi công vụ cũng như đời sống, đấu tranh chống lại các hiện tượng chuyên quyền, độc đoán, máy móc, trong giải quyết công việc và thực thi công vụ. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, văn hóa được coi trọng như một giá trị nội sinh, nó làm giá trị kinh tế tăng lên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân càng đòi hỏi cao về trình độ văn hóa đối với ĐNCC.
Yêu cầu về văn hóa đòi hỏi người công chức phải có kiến thức liên ngành cần thiết; có kiến thức, có tri thức cao về văn hóa, văn minh của dân tộc, của nhân loại, có hiểu biết sâu sắc về lịch sử và truyền thống văn hiến của dân tộc để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ ba, yêu cầu nâng cao trí tuệ ĐNCC.
Trong nền kinh tế tri thức, công chức nói chung, công chức UBND cấp huyện nói riêng, phải có trình độ kiến thức và năng lực tư duy khoa học sáng tạo, nhạy bén, độc lập, trí tuệ cao. Ở một số ngành, lĩnh vực và đối với ngạch chuyên viên trở lên thì trình độ đại học là bắt buộc, ở một số ngành và lĩnh vực khác phải trên đại học. Yêu cầu trí tuệ hóa ĐNCC buộc người công chức phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ kiến thức và năng lực trí tuệ của mình. Đồng thời, nhà nước cần có chính sách, chế độ và tạo điều kiện để công chức được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng, bổ sung những tri thức mới của khoa học và công nghệ hiện đại để thực thi công vụ hiệu quả nhất.
Thứ tư, yêu cầu chuyên môn hóa, hiện đại hóa ĐNCC.
Công chức được đào tạo nghề nghiệp một cách chính quy bài bản, hoạt động công vụ mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp nhằm bảo đảm cho công vụ được liên tục và ổn định. Do đó, ĐNCC cần phải đào tạo về mặt chuyên môn một cách chính quy, hệ thống. Hơn nữa, vì lao động thực thi quyền nhà nước, thực thi pháp luật không được phép sai sót, không được vi phạm. Do vậy, ĐNCC cần phải nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ, phải am hiểu sâu sắc lĩnh vực chuyên môn của mình.
Trong điều kiện ngày nay, ĐNCC phải có trình độ chuyên môn hóa cao, được đào tạo một cách chính quy và hệ thống; đồng thời phải thường xuyên được bồi dưỡng kịp thời các thông tin và tri thức mới của khoa học – công nghệ. Không thể xây dựng được nền công vụ và nền hành chính nhà nước, chính quy, hiện đại, phục vụ đắc lực nhân dân nếu ĐNCC chưa được quản lý và đào tạo cơ bản theo hướng chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa.
Thứ năm, yêu cầu về tính dân chủ của công chức trong thực thi nhiệm vụ.
Trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta, dân chủ với tư cách là động lực và mục tiêu của sự phát triển. Yêu cầu này đòi hỏi công chức phải phát huy trí tuệ, tài năng và mọi nguồn lực, của cải của dân để tạo nên sức mạnh, biết tôn trọng lợi ích và quyền của dân, biết làm chủ bản thân, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích chung của xã hội.
Hơn nữa, trong thời đại ngày nay nhu cầu dân chủ đang trở thành đòi hỏi cấp thiết và tất yếu của xã hội loài người. Nhân loại đang hướng tới xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn. Tình trạng mất dân chủ, dân chủ hình thức, quan liêu hách dịch của một bộ phận công chức ở nơi này, nơi khác đang là điều nhức nhối cần phải được kiên quyết khắc phục triệt để. Để có được tính dân chủ, tác phong làm việc dân chủ, người công chức phải học hỏi, phải luôn nâng cao nhận thức và không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, đồng thời Nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế dân chủ văn minh và công bằng. Đó là môi trường cần thiết để tạo lập nền văn hóa dân chủ, tác phong dân chủ của người CBCC.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng công chức Ủy ban nhân dân cấp huyện
Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ là tập hợp các dấu hiệu, điều kiện, đặc trưng, các chỉ số định tính, định lượng làm căn cứ để nhận biết, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ trên thực tế. Căn cứ xác định tiêu chí đó là: chức năng, nhiệm vụ của cán bộ; các yếu tố cấu thành con người và các mặt hoặt động chủ yếu của cán bộ; yêu cầu về chất lượng của cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về phẩm chất chính trị, lương tâm và đạo đức nghề nghiệp
Phẩm chất chính trị là một yếu tố thuộc lĩnh vực ý thức của con người. Việc xem xét phẩm chất chính trị là tiêu chí hàng đầu để đánh giá chất lượng của công chức. Chất lượng công chức thể hiện ở lòng nhiệt tình cách mạng; tin tưởng tuyệt đối và trung thành với lý tưởng của Đảng, với chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phấn đấu vì lợi ích quốc gia, dân tộc; kiên định với mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; ý thức tuân thủ kỷ luật Đảng; hiểu biết và khả năng thực thi pháp luật của Nhà nước, khả năng đấu tranh chống lại các biểu hiện lệch lạc, sai trái trong đời sống xã hội đi trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những tiêu chí đạo đức của người cán bộ và con đường hình thành đạo đức của người cán bộ. Người cho rằng, tự bản thân mỗi CBCC phải rèn luyện thường xuyên, hằng ngày. “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”1.
Trong công tác cũng như trong cuộc sống đời thường, lương tâm và đạo đức nghề nghiệp của người công chức UBND cấp huyện biểu hiện ở việc: (1) Gương mẫu về đạo đức, lối sống, thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; không tham nhũng, vụ lợi và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. (2) Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy quy chế cơ quan, thi hành nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy định của pháp luật. (3) Tận tụy phục vụ Nhân dân, tôn trọng Nhân dân, không quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức cá nhân trong khi giải quyết công việc. (4) Có lối sống lành mạnh, giản dị, khiêm tốn, không bê tha; đoàn kết, dân chủ, chân tình với đồng nghiệp và những người xung quanh, lời nói đi đôi với việc làm, nói ít làm nhiều.
Công chức UBND cấp huyện là người tiếp xúc, làm việc liên quan trực tiếp đến người dân, vừa chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp cho các xã, phường thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước… Vì vậy, phẩm chất đạo đức của công chức cấp huyện là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công việc.
Về tính chuyên nghiệp
Nói đến tính chuyên nghiệp của công chức là nói đến đạo đức, năng lực chuyên môn của công chức, đặc biệt sự nghiêm túc thực thi công vụ, trong chấp hành và điều hành, biết xây dựng quy trình làm việc, biết hợp tác và kết thúc công việc có hiệu quả. Quá trình giải quyết công việc, tiếp xúc với Nhân dân và tổ chức có văn hóa, với thái độ lịch sự, văn minh (thể hiện trong trang phục, giao tiếp, ứng xử) làm cho người dân hài lòng khi đến công sở hành chính.
Về năng lực và trình độ kiến thức
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì năng lực của con người không phải hoàn toàn tự nhiên mà có, phần lớn do công tác, do luyện tập mà có. Bên cạnh việc nhấn mạnh tiêu chuẩn đạo đức, coi đó là gốc của người cán bộ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn đề cao tiêu chuẩn tài năng đối với CBCC. Người cho rằng, CBCC phải đồng thời có cả đức, tài và kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố đó, vì người cán bộ có tài mà không có đức thì không làm được việc gì, thậm chí làm hại cho đất nước; còn nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Nhóm tiêu chí đánh giá năng lực trình độ của công chức bao gồm: trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm công tác… Bên cạnh đó, tiêu chí sức khỏe đối với công chức cxũng là nội dung cần thiết.
Về kỹ năng xử lý công việc
Kỹ năng xử lý công việc là kỹ năng rất cần thiết đối với công chức UBND cấp huyện, kỹ năng này bao gồm: (1) Kỹ năng quản lý: bao gồm các kỹ năng hoạch định tổ chức, điều hành cơ quan và tổ chức công việc cá nhân. (2) Kỹ năng ứng xử và giao tiếp: khả năng này đòi hỏi sự tinh tế, linh hoạt và kiến thức cũng như kinh nghiệm xã hội của công chức. (3) Kỹ năng thuyết phục: làm cho người khác thấy được tính ưu việt, tính hợp lý trong ý tưởng của mình, khiến người khác tin và làm theo. Các nhà quản lý rất cần phải có kỹ năng này để bảo đảm sự thành công trong quá trình lãnh đạo.
Bên cạnh đó, công chức hành chính cấp huyện cần có kỹ năng công tác. Đó là tổng hợp những kỹ năng của công chức trong việc sử dụng công cụ, phương tiện làm việc để hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách thành thạo, dễ dàng, khéo léo. Khả năng này được tích lũy thông qua đào tạo, bồi dưỡng hoặc tự trải nghiệm trong quá trình làm việc. Đó có thể là kỹ năng sử dụng tin học, ngoại ngữ hoặc là kỹ năng điều tra, kiểm tra, giám sát, kỹ năng trả lời chất vấn… Đối với mỗi loại công chức cần phải thông thạo các kỹ năng phục vụ trực tiếp cho công việc của mình.
Kết quả công tác, sự tín nhiệm của Nhân dân
Đây là nhóm tiêu chí đánh giá năng lực thực thi nhiệm vụ thực tế của CBCC UBND cấp huyện. Phản ánh mức độ hoàn thành nhiệm vụ của công chức và mức độ đảm nhận chức trách nhiệm vụ của công chức UBND cấp huyện. Kết quả công tác thực tế bao gồm những yếu tố cụ thể: thái độ công tác; khối lượng công việc hoàn thành; hiệu suất công tác (năng suất lao động cá nhân. thời gian và tốc độ hoàn thành công việc; mức độ vượt qua những trở ngại của bản thân và vượt lên những khó khăn của hoàn cảnh để hoàn thành công việc được giao; sự tiết kiệm những chi phí về tài chính cũng như sức người, sức của trong quá trình tiến hành công việc)…
Sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân (thông qua các tổ chức của hệ thống chính trị và nơi ở của công chức) và sự tín nhiệm của các cấp ủy, các cơ quan tham mưu. Đây là dấu hiệu cơ bản, không thể thiếu khi đánh giá chất lượng ĐNCC UBND huyện hiện nay, là dấu hiệu tin cậy, chắc chắn bảo đảm ĐNCC cấp huyện thật sự có chất lượng tốt. Điều này, góp phần giải thích tại sao trong cùng một hoàn cảnh khách quan mà nhiều nơi chất lượng người cán bộ không như nhau, thậm chí kém xa nhau.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng ĐNCC UBND cấp huyện như trên có quan hệ biện chứng, mật thiết với nhau, tạo thành một hệ tiêu chí thống nhất. Để đánh giá đúng chất lượng ĐNCC UBND cấp huyện cần xem xét đầy đủ các tiêu chí đó, cách đánh giá phải thật sự khách quan, toàn diện, vừa định lượng, vừa định tính, lấy định lượng để định tính; xem xét toàn diện, tổng hợp tất cả các yếu tố để định tính rõ ràng, đầy đủ chất lượng ĐNCC UBND cấp huyện.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 293.
Tài liệu tham khảo:
1. Cao Thị Đức. Chất lượng công chức các phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, 2016.
2. Cao Công Minh. Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay. Luận án Tiến sỹ triết học, Học viện Khoa học xã hội, 2012.
3. Lê Đình Mùi. Pháp luật về đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay. Luận án Tiến sỹ luật, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2012.
4. Trần Nghị. Trách nhiệm của công chức trong thực thi công vụ đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2017.
5. Đào Thị Thanh Thủy. Đánh giá công chức theo kết quả thực hiện công vụ. Luận án Tiến sỹ, Học viện Hành chính Quốc gia, 2016.
TS. Lê Thị Hạnh
Viện Triết học – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh