Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo  

(Quanlynhanuoc.vn) – Bình đẳng giới là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật và trong các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Năm 2006, Quốc hội thông qua Luật Bình đẳng giới, đưa bình đẳng giới vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Bài viết đề cập bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở lĩnh vực này.

Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ngành Giáo dục (Bộ GDĐT) tổ chức hội nghị tập huấn công tác bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, ngày 29/6/ 2020.  Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Hữu Độ phát biểu tại Hội nghị (Nguồn: https://moet.gov.vn).

1. Bình đẳng giới (BĐG) là mục tiêu cho sự phát triển bền vững của xã hội, là một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được những thành tựu quan trọng về BĐG. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua.

Điểm nổi bật trong bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung pháp luật, chính sách về BĐG. Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; 2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các quyền cơ bản của phụ nữ đã được cụ thể hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Luật BĐG năm 2006, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Bộ luật Dân sự năm 2015…

Riêng với lĩnh vực giáo dục và đào tạo (GDĐT), Điều 14 Luật BĐG năm 2006 khẳng định: “1. Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng. 2. Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo. 3. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. 4. Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ”.

Bên cạnh đó, để thúc đẩy BĐG trong lĩnh vực này,  Điều 13 Luật Giáo dục năm 2019 quy định: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, đặc điểm cá nhân, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập”.  Theo đó, độ tuổi đi học cho tất cả các cấp học, từ giáo dục mầm non đến giáo dục phổ thông bình đẳng cho cả nam và nữ, không có sự phân biệt. Nam nữ được hỗ trợ, tạo mọi điều kiện để hoàn thành giáo dục phổ cập cũng như lựa chọn ngành nghề học tập và đào tạo. Khoản 7 Điều 6 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 cũng quy định: “…thực hiện bình đẳng giới trong giáo dục nghề nghiệp”, theo đó, nam nữ được quyền tự do lựa chọn ngành nghề đào tạo.

Thực hiện quy định tại Luật Giáo dục nghề nghiệp, ngày 28/9/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 46/2015/ QĐ-TTg quy định chính sách hỗ trợ đào tạo sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng, theo đó, học viên là nữ được hỗ trợ chi phí đào tạo, hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại. Và tại Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức cũng có quy định về chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng đối với các bộ, công chức, viên chức là nữ.

Ngoài ra, Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 – 2020 đã đưa ra mục tiêu: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực GDĐT, theo đó, có 2 chỉ tiêu thực hiện BĐG trong giáo dục, đó là: (1) Tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15 – 40 ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn đạt 90% vào năm 2015 và 95% vào năm 2020; (2) Tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt 40% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020; tỷ lệ nữ tiến sỹ đạt 20% vào năm 2015 và 25% vào năm 2020.

Với trách nhiệm quản lý nhà nước, Bộ GDĐT đã tiến hành lồng ghép giới vào chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông và thực hiện rà soát vi phạm BĐG trong sách giáo khoa hiện hành. Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức BĐG cho cán bộ, nhà giáo, người lao động của ngành Giáo dục cũng đã đạt những kết quả đáng kể.

Như vậy, có thể nói, thực hiện BĐG trong lĩnh vực giáo dục luôn được quan tâm bởi nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp tăng chất lượng nguồn nhân lực trung bình của xã hội. Nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả năng thiên bẩm như nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có tiềm năng thấp hơn trẻ em gái lại được học hành nhiều hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp hơn mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế. BĐG trong giáo dục có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nguồn nhân lực của tương lai.

Khi mức độ bất BĐG trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào tạo, tỷ lệ nữ so với nam tăng lên và khi trình độ cũng như nhận thức của phụ nữ trong gia đình được cải thiện, số lượng và chất lượng đầu tư cho giáo dục đối với con cái sẽ được cải thiện trực tiếp thông qua sự dạy dỗ của người mẹ cũng như khả năng thuyết phục hoặc quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đối với con cái. Ngoài ra, khi trình độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trò quyết định trong việc chăm sóc và dinh dưỡng đối với con cái thì về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã hội sẽ được nâng lên.

2. Thực hiện quy định về BĐG trong lĩnh vực GDĐT, những năm qua, phụ nữ và trẻ em gái luôn được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong việc nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam – nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp.

Theo số liệu thống kê, tỷ lệ biết chữ của nữ giới (từ 15 tuổi trở lên) đều tăng từ năm 2002 đến nay. Tỷ lệ nữ học sinh tham gia giáo dục phổ thông có sự ổn định trong 10 năm qua. Tại cấp tiểu học và trung học cơ sở, học sinh nữ chiếm tỷ lệ 47 – 48%, tuy nhiên, tại cấp trung học phổ thông, tỷ lệ nữ học sinh tăng khoảng 3% trong 10 năm qua (từ 49,26% lên 53,54%). Trong giai đoạn 2007 – 2015, số lượng sinh viên cả nam và nữ có sự gia tăng đáng kể. Tỷ lệ sinh viên nữ so với sinh viên nam có sự gia tăng, từ năm 2013 – 2015, số lượng nữ sinh viên nhiều hơn số lượng nam sinh viên1.

Theo thống kê của Bộ GDĐT, năm 2019, tỷ lệ biết chữ của nữ trong độ tuổi từ 15 – 60 đạt 97,33% so với nam giới là 97,98%. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết chữ trong độ tuổi từ 15 – 60 đạt 93,6%, trong đó, tỷ lệ nữ dân tộc thiểu số biết chữ đạt 92,58%. Tỷ lệ nữ sinh tham gia các kỳ thi quốc gia và quốc tế trong thời gian vừa qua cũng tăng lên đáng kể, nhiều nữ sinh đã đạt giải các trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế. Năm 2015, tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt 59%, tiến sỹ đạt 36%; năm 2019, tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt 54,25%, tiến sỹ đạt 30,8%2.

Đặc biệt, số lượng nhà khoa học nữ chiếm tỷ lệ cao và tăng dần theo thời gian, từ 41% năm 2011 lên 44,8% năm 2015. Nhà khoa học nữ làm chủ nhiệm các đề tài khoa học công nghệ cấp quốc gia ngày càng tăng, năm 2016 có 19,2% đề tài cấp quốc gia do nhà khoa học nữ chủ trì. Nhiều nhà khoa học nữ đã được tôn vinh, được nhận các giải thưởng trong và ngoài nước. Giai đoạn 2012 – 2016, tỷ lệ nữ giáo sư trong cả nước là 8,4%, nữ phó giáo sư là 26,3%3.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện BĐG trong lĩnh vực GDĐT vẫn còn một số tồn tại sau:

Thứ nhất, tỷ lệ biết chữ của nữ giới (từ 15 tuổi trở lên) dù có tăng từ năm 2002 đến nay, nhưng lại luôn thấp hơn nam giới từ 1 – 4%. Thực tiễn cũng cho thấy, bất BĐG vẫn thể hiện rõ ở các cấp đào tạo trong lĩnh vực giáo dục. Ví dụ ở các trường đại học, cao đẳng sư phạm, đặc biệt những trường đào tạo giáo viên cho cấp mầm non, tiểu học, trung học phổ thông, sinh viên chủ yếu là nữ. Nhưng giảng viên của trường thì tỷ lệ giảng viên nữ lại khiêm tốn hơn giảng viên nam. Đặc biệt, những giảng viên nữ có học hàm, học vị thấp hơn nhiều so với giảng viên nam. Trong tổng số 24.083 giảng viên giảng dạy ở các cấp bậc đại học, cao đẳng trên cả nước, chỉ có 8.708 người là nữ, chiếm tỷ lệ 0,36% tổng số giảng viên.

Bên cạnh đó, khoảng cách giới ở bậc sau đại học là khá lớn. Mặc dù tỷ lệ nữ có trình độ sau đại học của Việt Nam đạt trên 30% song vẫn chỉ bằng ½ so với nam giới. Ở trình độ học vấn càng cao thì sự chênh lệch càng lớn, đặc biệt đối với học vị tiến sỹ, tiến sỹ khoa học và học hàm giáo sư, phó giáo sư. Hiện nay, trong các trường đại học, nữ giáo sư chỉ chiếm 7%; nữ phó giáo sư đạt 11,4% và nữ tiến sĩ là 21,6%4.

Thứ hai, cơ hội giáo dục cho trẻ em gái và phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số vẫn còn hạn chế. Tỷ lệ trẻ em gái ở các tỉnh miền núi đi học còn thấp, có nơi chỉ chiếm khoảng 10 – 15%. Nguyên nhân chủ yếu là các em phải ở nhà giúp gia đình, mặt khác, các trường nội trú thường ở quá xa nhà cùng với việc ở một số vùng vẫn còn tập quán lấy chồng sớm5.

Thứ ba, mặc dù khoản 4 Điều 14 của Luật BĐG quy định về hỗ trợ cho nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi, tuy nhiên, sau 10 năm ban hành Luật, quy định này mới được Chính phủ quy định tại Điều 36 – 37 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Hơn nữa, nội dung này cũng chưa có hướng dẫn cụ thể để có thể triển khai trong thực tế.

Thứ tư, tỷ lệ lao động nữ chưa qua đào tạo của cả nước còn ở mức cao: 87,1%, trong đó, khu vực nông thôn là 92,8% và khu vực thành thị là 71,2%. Bên cạnh đó, tỷ trọng dân số nữ từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật khá cao (88,9%), trong khi số nữ có trình độ đại học trở lên chỉ chiếm một phần rất nhỏ (3,7%)6.

Thứ năm, định kiến giới trong các tài liệu giáo dục và sách giáo khoa vẫn còn tồn tại mặc dù đã bước đầu thực hiện lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa và các hoạt động ngoại khóa. Đội ngũ giáo viên các cấp chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về BĐG một cách bài bản.

Phụ nữ vẫn bị coi là có khả năng học tập thấp hơn nam giới và không giỏi bằng nam giới trong khoa học tự nhiên. Phụ nữ học cao bị coi là “mối đe dọa” đối với hôn nhân và quan hệ hôn nhân của bản thân họ. Trong các gia đình, việc đầu tư cho trẻ em gái đi học vẫn thấp hơn đầu tư cho trẻ em trai do quan niệm “trọng nam, khinh nữ” vẫn còn tồn tại.

Thứ sáu, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực GDĐT trong việc thực hiện BĐG mà cụ thể là việc ban hành chính sách và tổ chức thực hiện lồng ghép giới còn hạn chế.

Công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thông, nâng cao nhận thức về BĐG chưa thật sự được chú trọng, chưa đạt được hiệu quả cao.

Thứ bảy, bản thân nhiều chị em chưa thoát ra khỏi tâm lý tự ti, an phận, không  phấn đấu, không chịu khó học tập để nâng cao trình độ, chưa nhận thức hết vai trò và chưa thay đổi cách nhìn mới về chính mình.

3. Từ thực tiễn đó cho thấy, việc thúc đẩy thực hiện BĐG trong lĩnh vực GDĐT cần được tăng cường hơn. Theo đó, cần tập trung vào những nội dung sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện, đẩy mạnh thực hiện các quy định của pháp luật, các chương trình hành động quốc gia về BĐG, trong đó có BĐG trong lĩnh vực GDĐT. Chẳng hạn, tại khoản 4 Điều 14 của Luật BĐG có quy định về hỗ trợ cho nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi, nhưng nội dung này vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể để có thể triển khai trong thực tế. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể để có thể triển khai nội dung này.

Hai là, thực hiện lồng ghép BĐG vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực GDĐT được xác định có nội dung liên quan đến BĐG hoặc có vấn đề bất BĐG, phân biệt đối xử về giới. Thực hiện lồng ghép BĐG trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hoạt động của ngành Giáo dục, trong xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục của các địa phương. Tăng cường kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch về BĐG.

Tăng cường các chính sách bù đắp thích hợp dành riêng cho phụ nữ theo từng nhóm như nhóm nữ cán bộ, công chức, viên chức, nhóm phụ nữ nông thôn, nhóm  lao động nữ (nhất là lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, lao động ngoài nhà nước)…

Ba là, xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành để thực hiện có hiệu quả công tác BĐG trong giáo dục như: trao đổi thông tin về dân số, lao động nữ trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, pháp luật; xây dựng hệ thống tiêu chí, yêu cầu thống kê thống nhất giữa Tổng cục Thống kê và các ngành, lĩnh vực quan tâm đến vấn đề giới; đề nghị Tổng cục Thống kê bổ sung nội dung về dân số theo nhóm tuổi đi học, theo nam – nữ, dân tộc và theo tỉnh/thành phố trong cuốn Niên giám thống kê hằng năm để làm cơ sở tính toán các chỉ tiêu về GDĐT, cũng như những nghiên cứu liên quan đến vấn đề giới, làm cơ sở đánh giá thực trạng và đề xuất chính sách về giới sát thực hơn.

Bốn là, rà soát, đánh giá thực trạng và nhu cầu đến trường của trẻ em gái và trẻ em trai ở một số địa phương trọng điểm (ví dụ, miền núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên). Rà soát tình trạng bỏ học của học sinh phổ thông, chú trọng trẻ em gái vùng dân tộc, trẻ em gái có hoàn cảnh đặc biệt dễ bị tổn thương. Đặc biệt, quan tâm việc triển khai các chương trình hỗ trợ học sinh nữ trong giai đoạn chuyển tiếp từ tiểu học đến trung học cơ sở; từ trung học cơ sở đến trung học phổ thông, học nghề, trung cấp chuyên nghiệp hoặc đại học.

Tuyên truyền, vận động cộng đồng, triển khai chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức và chia sẻ thông tin hướng đến gia đình và trường học để khuyến khích và huy động trẻ em đến trường, tạo điều kiện hòa nhập cho những trẻ em gái có hoàn cảnh đặc biệt.

Rà soát, đánh giá hiện trạng và xác định nhu cầu xóa mù chữ của nam, nữ trong độ tuổi từ 15 trở lên (chú trọng đến các địa phương có tỷ lệ mù chữ cao). Điều tra, cập nhật, thống kê số liệu mù chữ hằng năm có tách giới theo phần mềm quản lý phổ cập giáo dục và xoá mù chữ của Bộ GDĐT. Tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, giáo viên tham gia các lớp xóa mù chữ cho phụ nữ dân tộc. Đẩy mạnh các chương trình hướng dẫn và tư vấn cho giáo viên làm việc với trẻ em gái dân tộc thiểu số, trẻ em gái có hoàn cảnh đặc biệt dễ bị tổn thương.

Năm là, tiếp tục xây dựng, phổ biến và tổ chức tập huấn sử dụng tài liệu hướng dẫn về lồng ghép giới trong chương trình, sách giáo khoa kèm theo các mẫu chỉnh sửa liên quan đến giới trong sách giáo khoa (bao gồm nội dung, hình ảnh, ngôn ngữ…) tới các ban biên soạn, thẩm định chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Khuyến khích việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền thông tin, hướng dẫn các nhà xuất bản trong việc biên soạn sách giáo khoa cũng như phổ biến thông tin phù hợp tới cha mẹ, giáo viên và học sinh về việc lựa chọn sách giáo khoa có nội dung bảo đảm có sự lồng ghép giới.

Xây dựng đề án, dự án về phương pháp giảng dạy giới, BĐG trong các cơ sở đào tạo giáo viên. Xây dựng tài liệu hướng dẫn, tài liệu tham khảo, chỉ dẫn nguồn, phổ biến, tập huấn cho giáo viên phương pháp tích hợp giảng dạy về giới tính, giới, sức khỏe sinh sản và BĐG vào các môn tự nhiên, xã hội…

Bảo đảm cân bằng của nam giới và nữ giới trong các khóa đào tạo, tập huấn ở tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Sáu là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho công tác BĐG. Tăng cường công tác nghiên cứu về BĐG trong lĩnh vực giáo dục. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế đa phương, song phương về BĐG trong giáo dục.

Bảy là, bản thân mỗi phụ nữ phải tự lực tự cường phấn đấu để vươn lên, rèn luyện theo các tiêu chí: có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa để tự khẳng định mình, cống hiến cho đất nước cũng như gia đình.

Chú thích:
1, 3, 4, 5, 6. Báo cáo tại Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Luật BĐG của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, ngày 17/10/2019.
7. Báo cáo số 362/BC-CP ngày 10/8/2020 của Chính phủ về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2019 và giai đoạn 2011 – 2020.

ThS. Nguyễn Thu Phương
Học viện Hành chính Quốc gia