Nâng cao công tác quản lý rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – chi nhánh tỉnh Thanh Hóa

(Quanlynhanuoc.vn) – Rủi ro thanh khoản là một trong những rủi ro đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong quá trình kinh doanh, khi một ngân hàng gặp rủi ro thanh khoản sẽ ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của các ngân hàng khác và rộng hơn là đe dọa đến sự an toàn trong hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Do đó, quản lý rủi ro thanh khoản của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) nói chung, Chi nhánh tỉnh Thanh Hóa nói riêng luôn là vấn đề được quan tâm đặc biệt.

 

Ảnh minh họa (Nguồn: internet).

 Mô hình tổ chức quản lý rủi ro thanh khoản của Ngân hàng Vietcombank – Chi nhánh tỉnh Thanh Hóa

Nghiên cứu thanh khoản hệ thống các ngân hàng thương mại tại Việt Nam có thể thấy, căng thẳng thanh khoản của hệ thống đã xảy ra 3 lần với diễn biến và tính chất khác biệt nhau: lần thứ nhất vào năm 2008; lần thứ hai từ tháng 12/2009 và lần thứ ba là từ tháng 10/2010 – 01/2011. Do đó, những quy định về quản lý rủi ro thanh khoản (RRTK) là nhóm quy định thường xuyên được cập nhật, thay đổi trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam.

Văn bản hiện hành điều chỉnh đối với hoạt động quản lý RRTK có thể kể tới: Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Thông tư số 06/2016/TT-NHNN ngày 25/05/2016 của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Một cách khái quát, pháp luật về quản lý RRTK của các ngân hàng tại Việt Nam bao gồm những nội dung cơ bản như sau: (1) Quy định về việc ban hành quy định nội bộ để quản lý thanh khoản; (2) Quy định về các chỉ tiêu thanh khoản mà ngân hàng phải tuân thủ; (3) Quy định về các biện pháp hỗ trợ, giám sát thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại.

Căn cứ vào các quy định của pháp luật và trong bối cảnh nhiều biến động, Ngân hàng Vietcombank đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, đón đầu những thay đổi của môi trường kinh doanh và xu thế hội nhập quốc tế, chuyển dịch mạnh mẽ, toàn diện trong hoạt động kinh doanh. Các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh chính đã tăng tốc và bứt phá, tỷ trọng nguồn vốn chi phí thấp gia tăng, tín dụng bán lẻ tăng trưởng mạnh mẽ; nợ xấu được kiểm soát chặt chẽ và thực chất, công tác xử lý thu hồi nợ xấu, nợ ngoại bảng ghi nhận những kết quả đột phá; mô hình tổ chức được hoàn thiện… Tại Vietcombank, công tác quản lý RRTK không tổ chức thành bộ phận độc lập mà từng chi nhánh phải tự chịu trách nhiệm về công tác quản lý rủi ro (QLRR) của mình trong giới hạn hướng dẫn của Vietcombank soạn thảo dựa trên các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Đối với Ngân hàng Vietcombank – Chi nhánh tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng hệ thống giám sát kiểm tra hoạt động QLRR để quản lý RRTK, cụ thể:

– Hệ thống kiểm tra giám sát tuân thủ: bao gồm phòng kiểm tra giám sát tuân thủ tại HSC (nhà cung cấp dịch vụ trọn gói về tài chính doanh nghiệp tại Việt Nam), các phòng/tổ kiểm tra giám sát tuân thủ tại các chi nhánh và các đơn vị trực thuộc Ngân hàng. Nhiệm vụ của hệ thống này là theo dõi mọi diễn biến trong hoạt động Ngân hàng nhằm đánh giá kịp thời về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục, quy chế, quy trình đã được Ngân hàng thiết lập nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời mọi loại hình rủi ro phát sinh.

– Hệ thống kiểm toán nội bộ: là bộ phận trực thuộc Ban kiểm soát ngân hàng, thực hiện rà soát đánh giá một cách độc lập và khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục, quy chế, quy trình đã được thiết lập nhằm QLRR trong hoạt động Ngân hàng.

– Phòng QLRR tác nghiệp và phòng QLRR thị trường: có chức năng tổ chức quản lý các rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động của Ngân hàng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất xảy ra.

Ngoài ra, mọi cán bộ ở cấp quản lý (từ trưởng/phó phòng trở lên) đều phải có trách nhiệm giám sát và kiểm tra hoạt động QLRR trong phạm vi tổ chức được Ngân hàng phân công quản lý.

Thực trạng quản lý rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Vietcombank – Chi nhánh tỉnh Thanh Hóa

Những kết quả đạt được

Những năm qua, Ngân hàng Vietcombank – Chi nhánh tỉnh Thanh Hóa đã nghiêm túc thực hiện các chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, các quy định về an toàn thanh khoản. Mặc dù chưa có bộ phận chuyên về theo dõi và quản lý RRTK, nhưng công tác tổ chức và thực hiện các văn bản về bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tương đối rõ ràng, đem lại hiệu quả trong công tác quản lý RRTK, thể hiện ở việc Ngân hàng xử lý các yêu cầu về thanh khoản phát sinh với chi phí hợp lý, qua đó, uy tín và thương hiệu của Vietcombank được duy trì và phát huy trên thị trường tài chính trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó, việc huy động nguồn vốn  được chú trọng nhằm bảo đảm nguồn và công tác thanh khoản. Mặc dù cuối năm 2019, Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đều bị ảnh hưởng kinh tế – tài chính nghiêm trọng do dịch Covid-19 diễn ra vô cùng phức tạp, thị trường tài chính có sự cạnh tranh “nóng” giữa các tổ chức tín dụng trong nước dẫn tới rủi ro tiềm ẩn cao, gây khó khăn cho hoạt động tín dụng, nhất là trong công tác huy động vốn, tuy nhiên, với sự nỗ lực của từng cán bộ ngân hàng, đặc biệt là những quyết sách có tính chiến lược đúng đắn nên nguồn vốn huy động của Vietcombank vẫn tăng trưởng ổn định, trong năm 2019, huy động vốn từ nền kinh tế đạt khoảng 3.700 tỷ đồng.

Hoạt động tín dụng được kiểm soát chặt chẽ, nợ xấu từng bước được xử lý, an toàn thanh khoản ngân hàng cũng vì thế được tạo lập và duy trì tốt. Trong năm 2018, Vietcombank – Chi nhánh Thanh Hóa đã đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới 1%, dư quỹ dự phòng rủi ro cho vay khách hàng và tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức ổn định.

Những hạn chế trong công tác quản lý rủi ro thanh khoản

Thứ nhất, mặc dù đã ý thức được những hậu quả tiêu cực của RRTK, song Vietcombank – Chi nhánh Thanh Hóa vẫn chưa thực sự chú trọng đúng mức đối với công tác này. Dù Ngân hàng đã ban hành quy định về quản lý thanh khoản trong hệ thống nhưng quy định này vẫn chưa được thực hiện một cách đầy đủ trên thực tế. Bên cạnh đó, các mô hình đánh giá RRTK của Vietcombank còn tương đối sơ sài, chưa kịp thời cập nhật các phương pháp, mô hình tiên tiến trên thế giới. Việc nhận dạng, đánh giá và đo lường RRTK của Vietcombank mới chỉ dừng lại ở các chỉ số, tỷ lệ của các số liệu sẵn có nên phần lớn công tác dự báo chỉ mang tính chất định tính chứ chưa xây dựng được các mô hình kỹ thuật để định lượng hóa các dự báo cung cầu thanh khoản của ngân hàng cũng như những biến động trên thị trường.

Thứ hai, công tác dự báo cung – cầu thanh khoản của ngân hàng chưa được triển khai. Hiện nay, Vietcombank mới chỉ có báo cáo phân tích khách hàng có tiền gửi lớn để phân tích nhu cầu rút tiền của các khách hàng lớn chứ chưa có báo cáo phân tích hành vi của các khách hàng vay có hệ số tín nhiệm cao, có hạn mức tín dụng lớn, hay các hợp đồng cam kết tín dụng. Những khách hàng này khi xuất hiện nhu cầu rút vốn vay, Vietcombank  ngay lập tức phải huy động đủ vốn để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Do vậy, một báo cáo tổng hợp dự báo nguồn cung và nhu cầu thanh khoản là cần thiết cho công tác quản lý thanh khoản của Vietcombank.

Thứ ba, RRTK có mối liên hệ chặt chẽ với các loại rủi ro khác mà ngân hàng thường gặp như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động. Hiện nay, quy chế nội bộ của Vietcombank về QLRR mới chỉ đề cập đến việc QLRR cho từng loại rủi ro một cách độc lập chứ chưa có quy định cụ thể về việc phối hợp giữa các phòng ban để có được kết quả một cách chính xác và toàn diện nhất.

Thứ tư, nguồn nhân lực trong công tác quản lý RRTK còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn QLRR của Ngân hàng, chưa có tầm nhìn bao quát, chưa lường trước được các diễn biến của thị trường. Một bộ phận cán bộ tác nghiệp thiếu tư cách đạo đức khiến uy tín của Ngân hàng bị sụt giảm nghiêm trọng, đồng thời nợ xấu gia tăng kiến RRTK của Ngân hàng diễn biến bất lợi.

Nguyên nhân của những hạn chế

Một là, do dòng vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế trong xã hội vào Ngân hàng bị hạn chế bởi tác động dịch Covid-19 và lạm phát. Bên cạnh đó, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách QLRR, làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không bảo đảm đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Hai là, Ngân hàng chưa thực hiện chính sách quản lý RRTK một cách khoa học và bài bản, vẫn còn chủ quan, ỷ lại vào cơ chế của Nhà nước. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa các ngân hàng, chỉ cần một số ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng lan tỏa trong toàn hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng sâu rộng tới việc duy trì hệ số an toàn tối thiểu CAR cũng như một số chỉ tiêu khác.

Ba là, RRTK cũng là rủi ro tài chính do tính “lỏng” của tài sản không ổn định. Một tổ chức tài chính (ngân hàng) có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, khi đó, tổ chức phải đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước. Tổ chức cũng phải đối mặt với RRTK nếu thị trường hoạt động của tổ chức có nguy cơ mất khả năng thanh khoản. RRTK thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân hàng cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, RRTK gắn liền với rủi ro tín dụng.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Vietcombank – Chi nhánh tỉnh Thanh Hóa

Thứ nhất, hoàn thiện quy trình quản lý RRTK trong hệ thống quy trình QLRR. Về cơ bản, Ngân hàng Vietcombank đã xây dựng hệ thống QLRR với các bước cần thiết. Mặc dù vậy, quy trình này vẫn cần được hoàn thiện hơn và phù hợp với cơ chế cụ thể của Ngân hàng. Điểm mấu chốt trong quy trình cần chú trọng để xây dựng và hoàn thiện chính là cách thức các phòng ban tham gia lập và xử lý báo cáo. Theo đó, RRTK cần được xử lý kịp thời hoặc nên được dự báo trước về các nguy cơ để tránh tình trạng thiếu thanh khoản. Nếu không làm được điều đó, Ngân hàng chắc chắn sẽ chịu những tổn thất như: đi vay với lãi suất cao, mất uy tín trên thị trường liên ngân hàng, giảm lợi nhuận trong tương lai khi phải điều chỉnh các kế hoạch kinh doanh một cách đột ngột, thậm chí có thể mất uy tín với người dân.

Thứ hai, nâng cao chất lượng cấp tín dụng. Tín dụng là hoạt động tạo ra sức cầu thanh khoản rất lớn, đồng thời, khi chất lượng tín dụng thấp sẽ khiến RRTK tăng cao, do vậy, vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng phải được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Để nâng cao chất lượng tín dụng, đòi hỏi Ngân hàng phải thực thi hàng loạt các giải pháp đồng bộ, trong đó cần chú trọng tăng cường kiểm tra kiểm soát tất cả các hoạt động kinh doanh, đặc biệt chú trọng kiểm soát hoạt động tín dụng và nâng cao chất lượng khâu thẩm định tín dụng.

Thứ ba, tăng cường năng lực tài chính với nhiều giải pháp khác nhau nhằm tăng vốn điều lệ như: tăng cường việc phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, tăng cường các hoạt động mua bán sáp nhập, tăng cường hoạt động liên doanh..  Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng có thể từng bước tăng vốn điều lệ thông qua việc tăng trích lập các quỹ, tăng cường phần lợi nhuận giữ lại để bổ sung vốn hoạt động.

Thứ tư, tăng cường hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ ngân hàng, hoàn thiện hệ thống quản lý RRTK. Kiểm tra kiểm soát nội bộ là hoạt động giữ vai trò rất quan trọng trong kinh doanh của ngân hàng, vì nó bảo đảm ngân hàng đang và sẽ chấp hành đúng các quy định trong tất cả các nghiệp vụ kinh doanh được Hội đồng thành viên và Ban lãnh đạo thông qua. Vì vậy, Ngân hàng Vietcombank cần hoàn thiện các thủ tục kiểm soát nội bộ cần thiết đặt trong quy trình quản lý RRTK.

Để tăng cường hệ thống QLRR, cần chú ý hoàn thiện mô hình QLRR theo hướng tiếp cận thông lệ quốc tế; xây dựng và ban hành bộ cẩm nang QLRR, cẩm nang kiểm soát nội bộ phù hợp với đặc thù của Ngân hàng; hoàn thiện chính sách QLRR cho phù hợp với từng loại rủi ro ở Ngân hàng; xác định các hạn mức rủi ro cho từng giai đoạn, từng lĩnh vực, từng đơn vị thành viên và cán bộ nghiệp vụ trong Ngân hàng; tăng cường công tác kiểm toán, đánh giá, kiểm soát chặt chẽ rủi ro tiềm ẩn theo định kỳ và đột xuất.

Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý thanh khoản, theo đó, cần nâng cao năng lực của cán bộ, nhân viên trong Ngân hàng, đặc biệt là năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý.

Tài liệu tham khảo:
1. Basel. Nguyên tắc quản lý và giám sát rủi ro thanh khoản, 2008.
2. Basel. Thông lệ tốt về quản lý thanh khoản của các ngân hàng, 2010.
3. Hoàng Xuân Phong. Quản trị rủi ro thị trường tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam/Luận án Tiến sỹ Học viện Ngân hàng, Hà Nội, 2014.
4. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

Phạm Thị Minh Thu
Ngân hàng Vietcombank – Chi nhánh tỉnh Thanh Hóa