Một số yêu cầu đối với thể chế phục vụ kiến tạo phát triển

(Quanlynhanuoc.vn) – Ở Việt Nam, kiến tạo phát triển đang trở thành nhu cầu cấp thiết của xã hội, trong đó thể chế  giữ vai trò tạo lập môi trường pháp lý cho việc đáp ứng nhu cầu kiến tạo phát triển của xã hội cũng như để Nhà nước – với tư cách là người nhận sự ủy thác từ Nhân dân thực hiện được nhiệm vụ kiến tạo phát triển. Như vậy, sự hiện diện của một thể chế phục vụ kiến tạo phát triển là tất yếu, một trong những yếu tố cơ bản cấu thành kiến tạo phát triển, trong đó thể chế phục vụ kiến tạo phát triển là thể chế thể hiện ý chí, khát vọng, mục tiêu của xã hội, Nhà nước định hướng, tạo ra không gian rộng mở cho sự phát triển của xã hội cũng như mỗi một cá nhân; đồng thời, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển.

 

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet).

1. Mỗi một quốc gia, xã hội cụ thể, trong từng giai đoạn lịch sử, có những định hướng phát triển phù hợp với quy luật khách quan cũng như những đặc thù riêng của quốc gia, xã hội đó. Đối với Việt Nam “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của Nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”1; đồng thời, “từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”2.

Những phương hướng cơ bản cũng đã được xác định gồm: “Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống Nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”3.

Vì vậy, yêu cầu chung, tiên quyết đặt ra đối với thể chế phục vụ kiến tạo phát triển (PVKTPT) là nhất thiết phải bám sát và cụ thể hóa mục tiêu, phương hướng trên vào trong nội dung cũng như tổ chức thực hiện thể chế với những mức độ, yêu cầu, sự vận dụng sáng tạo cho phù hợp thực tiễn phát triển trong từng giai đoạn.

2. Thể chế PVKTPT cần hướng tới việc giải phóng sức sản xuất của xã hội, khơi thông các nguồn lực (nhân lực, vật lực) và đưa được các nguồn lực đó vào quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung, phát triển trong từng lĩnh vực đời sống xã hội nói riêng. Thực tế cho thấy, khi có được môi trường pháp lý biết thu hút nguồn lực từ xã hội – xã hội có thể, đã và đang thực hiện được nhiều việc đóng góp vào sự phát triển của quốc gia.

Vì vậy, sự tham gia, đóng góp của mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp, thương nhân, cá nhân vào phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội đều phải được ghi nhận, khuyến khích, không phụ thuộc vào quy mô, giá trị của sự đóng góp. Nhưng thể chế PVKTPT cũng phải đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước nỗ lực, cố gắng hơn nữa để đảm nhận được và hoàn thành nhiệm vụ là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Thể chế cũng cần phải đi trước, mở đường cho nền kinh tế tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu, từng bước định vị giá trị của nền kinh tế trong bản đồ kinh tế thế giới.

3. Trong thể chế PVKTPT thì: “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”4; đồng thời, “tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của Nhân dân”5. Không chỉ định ra quyền, nghĩa vụ cho các cá nhân, quan trọng hơn, thể chế phải tạo ra những điều kiện, bảo đảm để phát triển năng lực cá nhân, liên kết, chia sẻ các năng lực đó nhằm tạo thành nền tảng cho năng lực phát triển của xã hội; những hỗ trợ, bảo vệ cho nhóm yếu thế, dễ tổn thương cũng cần được phản ảnh, thể hiện trong thể chế một cách đầy đủ. Từ đó, tạo điều kiện cho sự phát triển của mỗi một cá nhân, hướng đến chân – thiện – mỹ, công dân toàn cầu.

4. Quản lý phát triển bền vững, quản lý phát triển xã hội cần được xác định là một trong những nội dung chủ đạo khi thiết kế, triển khai trong thực tế thể chế PVKTPT. Sự phát triển nhanh chóng, không ngừng của kinh tế – xã hội (KTXH) (cả về quy mô, tốc độ) làm cho các vấn đề, các quan hệ KTXH, văn hóa thay vì tách biệt tương đối rõ như trước kia thì giờ đây lại gắn kết chặt chẽ với nhau thành một chỉnh thể không tách rời và tác động, ảnh hưởng qua lại một cách sâu sắc, trở thành các mặt của quá trình phát triển.

Đồng thời, tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống… một mặt, song hành với sự vận động, phát triển KTXH, mặt khác, ẩn chứa những xung đột với phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển văn hóa. Thêm vào đó, quá trình phát triển kinh tế, phát triển của khoa học và công nghệ cũng đặt ra nhiều hệ quả cần tính đến trên phương diện xã hội cho nước ta như: phân tầng xã hội, biến đổi cơ cấu xã hội, mô hình gia đình, dân số già, khoảng cách giàu nghèo, sự xuất các nhóm xã hội, giao dịch xã hội trong môi trường số/ảo… Vì vậy, để PVKTPT, thể chế cần phải đặt các vấn đề xã hội ngay trong lòng các vấn đề kinh tế và ngược lại, cũng như có phương án kiểm soát được những rủi ro về KTXH, văn hóa, môi trường… trong quá trình phát triển.

5. Thể chế PVKTPT cần tạo lập được môi trường (trước hết là môi trường pháp lý) để Việt Nam tiếp tục hội nhập quốc tế sâu rộng, khẳng định và nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế ở tất cả phương diện (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội) với những bước đi phù hợp năng lực quốc gia và phù hợp xu thế thời đại, theo nguyên tắc “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”6.

6. Thể chế PVKTPT phải xác định được rõ những vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của Nhà nước trong thực tiễn Việt Nam. “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”7 là bản chất của Nhà nước ta. Trong giai đoạn hiện nay, trước nhu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được bổ sung thêm sứ mệnh, nhiệm vụ kiến tạo phát triển. Theo đó, có sự điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước (CQNN) cũng như về tổ chức bộ máy, về sự phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Trước hết, khi xác định về nhiệm vụ, quyền hạn của các CQNN, yêu cầu chủ thể quản lý, phương thức quản lý, nội dung quản lý phải phù hợp với tính chất, quy luật vận động của đối tượng quản lý cần được tôn trọng, xem như là một trong căn cứ cơ bản để định hình chức năng, nhiệm vụ của các CQNN. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ vừa làm cho phân công lao động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc nhưng đồng thời cũng làm cho từng khâu, từng mắt xích của đời sống xã hội gắn kết đến mức tạo thành một chuỗi thống nhất.

Các sản phẩm được sản xuất theo hướng đa chức năng, đa tiện tích và có thể tích hợp với các sản phẩm khác (điện thoại thông minh (smart phone) là một ví dụ. Không đơn thuẩn chỉ có chức năng gọi – nghe, điện thoại thông minh còn có nhiều chức năng khác: thanh toán, tính toán, soạn thảo văn bản, định vị vị trí, điều khiển từ xa). Kinh tế của đơn vị hành chính – lãnh thổ muốn phát triển không chỉ phát huy lợi thế so sánh của địa phương mình mà còn phải biết liên kết, chia sẻ lợi thế so sánh với địa phương khác; ngược lại, một rủi ro xảy ra ở một địa phương tất yếu sẽ lan truyền và ảnh hưởng đến địa phương khác do chuỗi sản xuất bị gián đoạn. Điều này cũng xảy ra ở tầm khu vực và toàn cầu, ở cấp độ quốc gia.

Vì vậy, liên kết phát triển vùng (rộng hơn là liên kết quốc gia, toàn cầu) là tất yếu. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội cũng đang có xu hướng này. Trong văn hóa, không thể không có văn hóa; ngược lại, kinh tế chỉ phát triển bền vững khi dựa trên nền tảng văn hóa; giáo dục, đào tạo không chỉ gồm kiến thức mà còn phải gồm kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống… Những phân tích mang tính minh họa này để cho thấy, quản lý đơn ngành, đơn lĩnh vực cần được tích hợp, chuyển thành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Như vậy, những chức năng, nhiệm vụ bộ phận quản lý có tính đơn ngành, đơn lĩnh vực sẽ phải giảm bớt. Đây chính là cơ sở quan trọng về lý luận để tinh gọn tổ chức bộ máy.

Đồng thời, do sự phát triển của giao thông, thông tin, chuyển đổi sang xã hội số, làm cho những trở ngại về khoảng cách địa lý tự nhiên đang được thu hẹp lại; cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã hình thành nên phương thức quản lý mới (quản lý trên nền tảng số hóa và dữ liệu lớn (Big Data)). Vì vậy, dần hình thành nên trung tâm quản lý, điều hành thống nhất từ trung ương đến địa phương (cổng dịch vụ công quốc gia, số hóa dữ liệu dân cư, hệ thống giám sát hành trình của các phương tiện vận tải, đánh bắt cá… là những ví dụ). Điều này cần được tính đến trong quá trình xác định chức năng, nhiệm vụ giữa CQNN ở trung ương với CQNN ở địa phương, phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương. Theo đó, sẽ có những nhiệm vụ, quyền hạn trước kia giao cho CQNN ở địa phương hoặc chính quyền địa phương thì nay sẽ tập trung về một đầu mối thống nhất; tất nhiên, những bộ phận trung gian cũng không cần thiết để tồn tại.

Ở một khía cạnh khác, đối với quản lý rủi ro, ứng phó các vấn đề an ninh phi truyền thống thì thực tế cho thấy, cần phải để cho CQNN ở địa phương, chính quyền địa phương đảm nhiệm (phương châm “bốn tại chỗ” trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh là ví dụ) sẽ giúp chính quyền phản ứng nhanh, đưa lại hiệu quả cao. Như vậy, vấn đề định hình, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các CQNN bên cạnh việc tuân theo nguyên tắc CQNN ở trung ương tập trung quản lý vĩ mô (ban hành pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch…), đẩy mạnh phân quyền, phân cấp cho địa phương thì cũng cần tính đến nguyên tắc cấp nào quản lý hiệu quả hơn, tốt hơn thì để cho cấp đó quản lý.

Cũng do sự phát triển của khoa học và công nghệ (trong đó có công nghệ thông tin), thể chế PVKTPT cần bảo đảm chuyển đổi từ phương thức quản lý với thủ tục giấy tờ truyền thống sang thủ tục quản lý văn bản số, văn thư số, lưu trữ số. Cùng với đó, những giới hạn về thời gian, không gian trong thực hiện thủ tục quản lý cần được thay đổi cho phù hợp với môi trường số, công nhận “những thuật ngữ/khái niệm, như: “văn phòng số”, “văn phòng di động”, “chữ ký số”, xa hơn là “công sở số”…

Thể chế PVKTPT cũng phải góp phần tạo lập được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực thực thi nhiệm vụ, công vụ đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, có khát vọng cống hiến cho đất nước nói chung, nền công vụ nói riêng, tận tậm, tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, mang trong mình đạo đức cách mạng, trong đó “hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc”8, xác định rõ “trong xã hội không có gì tốt đẹp vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của Nhân dân”9 và “Những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh”10.

7. Thu hút, mở rộng sự tham gia của xã hội, của người dân vào quá trình kiến thiết quốc gia là yêu cầu không thể thiếu trong nội dung của thể chế PVKTPT. Xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, kiến tạo phát triển không là nhiệm vụ riêng của Nhà nước và cũng không thành công nếu chỉ có Nhà nước. “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”11. Nhân dân không chỉ là một trong những chủ thể tham gia vào quá trình kiến tạo phát triển mà còn là chủ thể thụ hưởng thành quả của kiến tạo phát triển. Trong thể chế PVKTPT, không chỉ ý chí, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của người dân mà cả năng lực, mức độ, quy mô tham gia của người dân vào quá trình kiến tạo phát triển cũng cần được xác định một cách đầy đủ, tương xứng với vị trí là chủ thể của nguồn gốc quyền lực nhà nước.

Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
6. Điều 12 Hiến pháp năm 2013.
7. Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia, 1995, tr. 285.
9, 10, 11. Chí Minh. Toàn tập. Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia, 2000, tr. 276, 276, 276.

PGS.TS. Lương Thanh Cường
Học viện Hành chính Quốc gia