Đánh giá, xếp loại chất lượng công chức đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách hành chính hiện nay

 (Quanlynhanuoc.vn) – Đánh giá, xếp loại chất lượng công chức luôn là nội dung được các cơ quan, đơn vị quan tâm. Việc đánh giá chính xác chất lượng của từng công chức sẽ tạo điều kiện thực hiện tốt công tác nhân sự, như: khen thưởng, kỷ luật, bổ nhiệm, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng… Chính vì vậy, việc xây dựng và cụ thể hoá các tiêu chí đánh giá, xếp loại chất lượng công chức là việc hết sức cần thiết.

 

Ảnh minh họa

1. “Chất lượng công chức” thường được tiếp cận dưới góc độ của cá nhân, là tập hợp các yếu tố phản ánh năng lực cá nhân mỗi công chức qua ba nhóm: thể lực – trí lực – tâm lực. Chất lượng của mỗi công chức trước hết được biểu hiện ở bản lĩnh chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, trình độ được đào tạo về chuyên môn, kiến thức văn hóa và giao tiếp; thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực lãnh đạo, quản lý, tổ chức, điều hành bộ máy và năng lực tổ chức thực tiễn; đồng thời, được biểu hiện ở hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, uy tín của họ trước tập thể và Nhân dân. Tuy nhiên, mỗi chức danh, mỗi cương vị khác nhau sẽ có yêu cầu chất lượng ở mức độ chuyên sâu khác nhau.

Nội dung đánh giá chất lượng công chức ở nước ta được quy định trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 bao gồm các nội dung: (1) Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. (2) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc. (3) Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. (4) Tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ. (5) Tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ. (6) Thái độ phục vụ Nhân dân.

Ngoài những nội dung trên, công chức lãnh đạo, quản lý còn được đánh giá theo các nội dung: kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết công chức.1

Như vậy, dựa vào tiêu chí đánh giá, xếp loại (ĐGXL) chất lượng công chức như các quy định hiện hành cho thấy phần nổi trội thuộc về hai nhóm là trí lựctâm lực. Mặc dù, tại Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ về  đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC); Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 sửa đổi bổ sung một số điều Nghị định 56/2015/NĐ-CP về đánh giá, phân loại CBCCVC đã quy định chi tiết về tiêu chí đánh giá chất lượng công chức nhưng vẫn còn những hạn chế, như: tiêu chí còn chung chung, chưa lượng hóa,  khó đo lường…

2. Để khắc phục những hạn chế về tiêu chí ĐGXL chất lượng cán bộ, công chức trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chứcLuật Viên chức năm 2019 đã có những sửa đổi. Theo đó, Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 của Chính phủ về ĐGXL chất lượng CBCCVC đã quy định chi tiết các tiêu chí về “chất lượng công chức”, trong đó nổi bật là việc bỏ các tiêu chí liên quan đến sáng kiến, giải pháp, công trình khoa học,… khi ĐGXL chất lượng CBCCVC  ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Tiêu chí chung về ĐGXL chất lượng CBCCVC, tại Điều 3 Nghị định số  90/2020/NĐ-CP quy định các nội dung, như: chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong, lề lối làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Nghị định số 90/2020/NĐ-CP đã cụ thể hoá các tiêu chí đánh giá chất lượng của CBCCVC, trong đó tại Điều 8 của Nghị định nêu rõ công chức ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phải bảo đảm được các tiêu chí :

1.Chính trị tư tưởng
a) Chấp hành chủ trương, đường lối, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình;
b) Có quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng; kiên định lập trường; không dao động trước mọi khó khăn, thách thức;
c) Đặt lợi ích của Đảng, quốc gia – dân tộc, nhân dân, tập thể lên trên lợi ích cá nhân;
d) Có ý thức nghiên cứu, học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết, chỉ thị, quyết định và các văn bản của Đảng.

2.Đạo đức, lối sống
a) Không tham ô, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, hách dịch, cửa quyền; không có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa;
b) Có lối sống trung thực, khiêm tốn, chân thành, trong sáng, giản dị;
c) Có tinh thần đoàn kết, xây dựng cơ quan, tổ chức, đơn vị trong sạch, vững mạnh;
d) Không để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

3.Tác phong, lề lối làm việc
a) Có trách nhiệm với công việc; năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ;
b) Phương pháp làm việc khoa học, dân chủ, đúng nguyên tắc;
c) Có tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ;
d) Có thái độ đúng mực và phong cách ứng xử, lề lối làm việc chuẩn mực, đáp ứng yêu cầu của văn hóa công vụ.

4.Ý thức tổ chức kỷ luật
a) Chấp hành sự phân công của tổ chức;
b) Thực hiện các quy định, quy chế, nội quy của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi công tác;
c) Thực hiện việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập theo quy định;
d) Báo cáo đầy đủ, trung thực, cung cấp thông tin chính xác, khách quan về những nội dung liên quan đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị với cấp trên khi được yêu cầu.

5.Hoàn thành 100% nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, theo kế hoạch đề ra hoặc theo công việc cụ thể được giao bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả cao, trong đó ít nhất 50% nhiệm vụ hoàn thành vượt mức.

3. Để nâng cao chất lượng công chức đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính hiện nay, cần quan tâm đến việc xây dựng và cụ thể hóa các tiêu chí ĐGXL chất lượng công chức. Một số giải pháp có thể thực hiện như sau:

Một là, việc ĐGXL chất lượng công chức cần được các cơ quan, tổ chức cụ thể hóa trong quy chế đánh giá công chức theo vị trí việc làm và căn cứ vào bản mô tả công việc của vị trí việc làm. Tiêu chí chất lượng công chức sẽ được mô tả, lượng hoá theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Điều này giúp cho cơ quan thuận lợi hơn trong việc trả lương, đào tạo, tuyển dụng theo vị trí việc làm.

Hai là, với các tiêu chí ĐGXL chất lượng được quy định trong Luật và Nghị định 90/2020/NĐ-CP nên coi đây là các “tiêu chí cứng”, dựa vào đó, các bộ, ngành, địa phương quy định cho phù hợp với đặc thù riêng. Do vậy, các bộ, ngành, địa phương, từng cơ quan cần thiết xây dựng quy chế đánh giá để cụ thể hóa các tiêu chí, phương pháp và cách thức cụ thể. Có thể cụ thể các tiêu chí, như : (1) Tiêu chí về thái độ: nhiệt tình, trung thực, tôn trọng, giờ giấc làm việc, phối hợp, hợp tác, tuân thủ nội quy, chấp hành mệnh lệnh cấp trên… (2) Tiêu chí năng lực: hiệu suất làm việc, thời gian hoàn thành, mức độ hoàn thành công việc, số lượng công việc hoàn thành, mức độ hiểu biết về công việc được giao, khả năng tiếp thu công việc, hiểu rõ các nghiệp vụ của công việc, kiến thức chuyên môn phù hợp với công việc…

Ba là, các tiêu chí được quy định trong Nghị định 90/2020/NĐ-CP nên được lượng hoá bằng điểm số. Đây cũng là cách một số địa phương đã áp dụng khi quy định cách chấm điểm theo tháng, theo quý, theo năm đối với công chức.Tuy nhiên, trong khu vực công vẫn không có điểm số cho từng vị trí công chức. Chính vì vậy, tổ chức không thể nắm bắt được các thiếu sót của công chức để thực hiện việc đào tạo lại nhằm bảo đảm việc thực hiện tốt công việc được giao.

Bốn là, có thể nghiên cứu xây dựng cơ chế đánh giá theo KPI (là từ viết tắt của Key Performance Indicator – chỉ số đánh giá thực thi công việc) trong cơ quan nhà nước. Đây là công cụ quản lý, được sử dụng để đo lường, phân tích khả năng đạt được mục tiêu của cơ quan, tổ chức. Khi cơ quan nhà nước áp dụng cách đánh giá theo chỉ số này cần phải thiết lập được hệ thống mục tiêu, theo dõi, đo lường được mức độ thực hiện các mục tiêu đề ra. Từng bộ phận, phòng, ban sẽ xây dựng chỉ số KPI cho đơn vị thể hiện được chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, từ đó có cơ sở để xây dựng chỉ số đo lường hiệu quả công việc đến từng cá nhân.

Đánh giá theo chỉ số KPI có thể giúp cơ quan, tổ chức theo dõi nhóm làm việc, giữa các phòng ban, cá nhân, lưu trữ dễ dàng trong hệ thống phần mềm quản lý khi có các chỉ số cụ thể, dễ dàng. Dữ liệu về mức độ hiệu quả của từng nhóm, phòng có thể hình thành nên khi KPI của cả cơ quan và phản ánh hiệu quả tổng thể của cơ quan. Trong quá trình xây dựng cần đánh giá chính xác kết quả thực thi công vụ của công chức là bước đi cơ bản trong tiến trình chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức. Do đó, các cơ quan, tổ chức cần xây dựng cụ thể các tiêu chí theo chỉ số KPI dựa trên quy định hiện hành đã có về trình tự, các bước tiến hành, thời gian thực hiện, chủ thể thực hiện…

Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong ĐGXL chất lượng công chức. Các cơ quan, tổ chức chuẩn hóa các vị trí việc làm; chuẩn hóa các tiêu thức đánh giá chất lượng, cập nhật; chuẩn hóa các thông tin liên quan của từng công chức từ khi vào cơ quan và trong suốt quá trình công tác, dễ dàng cập nhật, theo dõi các tiêu chí đánh giá…

Đánh giá chất lượng công chức là vấn đề quan trọng để bảo đảm hiệu quả trong thực thi công vụ. Tuy nhiên, dù sử dụng tiêu chí và cách đánh giá như thế nào thì bản thân mỗi công chức cần tự ý thức rèn luyện phẩm chất đạo đức, chính trị và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bản thân để làm tốt các nhiệm vụ trong hoạt động thực thi công vụ, đem hết sức mình phục vụ cho Nhân dân.

Chú thích:
1. Khoản 1, 2 Điều 56 Luật Cán bộ, công chức năm 2008.

Tài liệu tham khảo:
1. Luật số 52/2019/QH ngày 25/11/2020: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019.
2. Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính phủ về  đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức.
3. Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 của Chính phủ về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.
4. Tạ Ngọc Hải. Chất lượng công chức và chất lượng đội ngũ công chức. https://tcnn.vn, ngày 18/02/2018.

TS. Lê Cẩm Hà
 Học viện Hành chính quốc gia