Dân chủ – kỷ cương trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng

(Quanlynhanuoc.vn) – Với phương châm “Đoàn kết – Dân chủ – Kỷ cương – Sáng tạo – Phát triển”, Đại hội XIII của Đảng có ý nghĩa định hướng và tầm nhìn chiến lược cho tương lai, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và phát triển đất nước nhanh, bền vững hơn. Trong đó, nội dung dân chủ và kỷ cương được coi trọng, gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

 

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (Nguồn: vtv.vn)
Nội dung dân chủ – kỷ cương trong Đại hội XIII của Đảng

Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trong đó dân chủ là một nội dung cần thiết cho việc phát triển và hoàn thiện đường lối, chiến lược trong giai đoạn mới nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trước mắt cũng như lâu dài của đất nước, dân tộc ta.

Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng ta luôn xác định dân chủ là một trong những mục tiêu và động lực cơ bản của cách mạng Việt Nam. Chế độ xã hội mà Nhân dân ta đã không ngừng đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiền phong của giai cấp công nhân, của Nhân dân và của cả dân tộc Việt Nam, để xây dựng nên chế độ dân chủ mới – dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) với những đặc trưng khác về chất với những chế độ dân chủ khác. Đặc trưng cơ bản của dân chủ XHCN là tất cả mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân. Mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân luôn là vấn đề mang tính sống còn của chế độ ta và là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Đại hội XIII của Đảng có chủ đề: “Đoàn kết – Dân chủ – Kỷ cương – Sáng tạo – Phát triển”, thể hiện bản lĩnh, ý chí kiên cường và quyết tâm đi tới của cả dân tộc vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát triển bền vững. Đây được coi như kim chỉ nam cho tư duy, chiến lược, hành động và ước vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định rất cụ thể mục tiêu: “đến năm 2025, Việt Nam sẽ là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, đòi hỏi tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm phải đạt khoảng 6,5 – 7%; GDP bình quân đầu người năm 2025 phải đạt khoảng 4.700 – 5.000 USD (hiện nay, mức bình quân đầu người của Việt Nam khoảng 3.000 USD). Năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao”1. Với những mục tiêu cụ thể, cho thấy, Đảng ta có một quyết tâm lớn đi kèm với nỗ lực không ngừng, hành động quyết liệt với tinh thần năng động, sáng tạo, đột phá để phát triển, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 và nhiều biến động, thách thức trong khu vực cũng như toàn cầu hiện nay.

Theo đó, có 3 định hướng chiến lược được Đảng ta xác định:

(1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả; đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu.

(2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội, về môi trường và quốc phòng, an ninh, ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.

Trong 6 nhiệm vụ trọng tâm được đề cập trong Văn kiện đại hội thì có 2 nhiệm vụ gắn liền với dân chủ và kỷ cương, đó là: nhiệm vụ thứ nhất: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”2 và, nhiệm vụ thứ năm là: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân; đồng thời, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị – xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc”3.

Những quan điểm, chủ trương nói trên của Đảng đã được thể hiện một cách rõ ràng, khoa học, là sự chỉ đạo quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới của đất nước, định hướng tương lai bằng việc phát huy tối đa dân chủ và phải hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

Dân chủ đi đôi với kỷ cương

Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là bản chất của chế độ ta. Đảng đã và đang lãnh đạo xây dựng và thực hiện các cơ chế tổ chức thích hợp để bảo đảm phát huy mạnh mẽ hơn nữa quyền làm chủ của Nhân dân. Với việc ban hành và thực hiện một số quy chế dân chủ, ở nhiều nơi đã hình thành nền nếp thường xuyên tổ chức để Nhân dân tham gia thảo luận xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, phương hướng, nhiệm vụ công tác của đơn vị; phát động quần chúng phấn đấu thực hiện các quyết định của Đảng; động viên Nhân dân tham gia kiểm tra mọi hoạt động của tổ chức Đảng, giám sát, phê bình cán bộ, đảng viên.

Có thể khẳng định, từ trước tới nay, chưa có cuộc vận động dân chủ nào sâu rộng, thiết thực và đạt hiệu quả cao như cuộc vận động Nhân dân góp ý kiến với Đảng và Nhà nước thời gian gần đây, nhất là vào những dịp tổ chức để Nhân dân tham gia ý kiến vào chuẩn bị Cương lĩnh của Đảng, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp của Nhà nước, xây dựng các văn kiện đại hội Đảng các cấp,…

Chúng ta đều hiểu rõ, dân chủ phải đi đôi với kỷ cương. Một đất nước không có kỷ cương thì rối loạn, mất ổn định – như vậy thì đất nước ấy không xây dựng, phát triển được. Cho nên, dân chủ và kỷ cương phải đi liền với nhau. Dân chủ nhưng phải kỷ cương và kỷ cương trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân chủ để phát huy trí tuệ của toàn Đảng; để thắt chặt đoàn kết, thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động, xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm hiện nay và trong thời gian tới.

Đảng kiên quyết, kiên trì đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng gắn với học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới nâng cao chất lượng và tính thực chất của công tác tổ chức cán bộ, mà trọng tâm là đánh giá cán bộ; nâng cao chất lượng cơ sở đảng và đảng viên; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nêu gương, nói đi đôi với làm, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tuyên truyền; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý báo chí, nhất là các phương tiện truyền thông trên internet. Nâng cao chất lượng và hiệu lực công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy, nội dung cốt lõi của một nước dân chủ, một nền dân chủ là ở chỗ lợi ích và quyền lực thuộc về Nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”4. Theo Người, ở nước ta, mọi quyền hành và lực lượng đều là của Nhân dân, từ Nhân dân mà ra. Người nhấn mạnh rằng: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”5.

Đây là cơ sở chủ yếu để phân biệt nền dân chủ của Nhà nước ta so với các nền dân chủ khác. Tư tưởng “vì dân, do dân” đã được Người quán triệt trong quá trình lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng và Nhà nước ta luôn thấm nhuần tư tưởng kim chỉ nam của Người và quán triệt tư tưởng đó trong Nhà nước được tổ chức, quản lý theo hướng kiến tạo phát triển, xây dựng một xã hội mới phát triển toàn diện, coi trọng nâng cao dân trí…

Để dân chủ – kỷ cương phải hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng dành khá nhiều cho nội dung xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ: tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Đồng thời, Văn kiện cũng khẳng định phải tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín đối với Nhân dân.

Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính.

Một số kiến nghị về thực hiện dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ cương hiện nay

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của người dân về quyền và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện dân chủ. Trước hết, cần phải nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm của người dân trong thực hiện quyền làm chủ. Quyền và trách nhiệm có liên quan mật thiết với nhau, không thể chỉ nhấn mạnh quyền mà coi nhẹ trách nhiệm hoặc ngược lại, không chỉ nhấn mạnh trách nhiệm mà coi nhẹ việc bảo đảm quyền làm chủ của người dân.

Để người dân có thể thực hiện đúng, đủ quyền và trách nhiệm của mình, cần phải nâng cao năng lực làm chủ cho người dân, tức là tạo cho người dân có kiến thức, kỹ năng và thái độ, thói quen trong thực hiện dân chủ. Người dân được hưởng quyền được thông tin về luật pháp, chính sách của Nhà nước và các vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội; liên quan đến các nhu cầu, lợi ích hằng ngày của người dân, cũng như đến việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước,… Cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể chính trị – xã hội có trách nhiệm truyền đạt, giải thích trực tiếp cho người dân thông qua các cách thức tuyên truyền, như: hội họp, tuyên truyền miệng, báo chí – truyền thông… Cần khuyến khích người dân nêu lên nhận thức và những băn khoăn, thắc mắc để giải thích kịp thời, thỏa đáng, nhằm nâng cao nhận thức, hành động của người dân về quyền và trách nhiệm của họ trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp. Để nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ, chính quyền các cấp, nhất là chính quyền cơ sở phải thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của mình, cũng như trách nhiệm giải trình trước nhân dân địa phương. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện đúng, đủ, có hiệu quả các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Mặt khác, cán bộ, công chức nhà nước cần đổi mới phong cách, thái độ ứng xử với người dân theo đúng tính chất là “công bộc của dân”, là người phục vụ dân; khắc phục căn bệnh quan liêu, cửa quyền, hách dịch, lạnh nhạt, vô cảm khi tiếp xúc với dân. Chỉ có trên cơ sở đổi mới phong cách, thái độ của chính quyền với người dân thì mới có thể khuyến khích người dân dám nói, dám biểu lộ chính kiến, quan điểm của mình theo tinh thần thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Thứ ba, kiên quyết chống nạn tham nhũng và quan liêu của cán bộ, công chức, viên chức chính quyền các cấp, các bộ, ngành. Trong việc thực hiện dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ cương, tất cả các cấp, các ngành phải hết sức kiên quyết  chống và loại trừ nạn tham nhũng, quan liêu của cán bộ, công chức; đồng thời, có biện pháp để ngăn cấm hành vi trù dập, trả thù những người đã mạnh dạn tố cáo những sai trái của cán bộ Nhà nước; xử lý thích đáng, nghiêm minh những kẻ vi phạm luật pháp, vi phạm lợi ích của Nhân dân và xã hội,… Trách nhiệm của Nhà nước và trách nhiệm của người dân trong việc phát huy dân chủ có mối quan hệ gắn bó trực tiếp, hỗ trợ, thúc đẩy nhau để bảo đảm một nền dân chủ thực sự trong cuộc sống thường ngày của người dân, nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ.

Thứ tư, nhận thức sâu sắc hơn về quan hệ biện chứng giữa dân chủ với chuyên chính; dân chủ với pháp luật, kỷ cương. Theo đó, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương; dân chủ và chuyên chính được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Để bảo đảm dân chủ được thực hiện tốt, hiệu quả, việc giải quyết mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương trong đời sống xã hội cần được quan tâm và xử lý hài hòa. Vì nếu dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức thì một số người sẽ núp dưới bóng dân chủ để làm điều xấu, như lợi dụng dân chủ để vi phạm quy định và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, gây rối, phá hoại, làm mất đoàn kết nội bộ; lợi dụng việc dân chủ để khiếu nại, tố cáo, vu khống, bôi nhọ danh dự người khác hoặc xúi giục, kích động, tung tin thất thiệt, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động công vụ của cơ quan, đơn vị.

Thứ năm, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Để tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở, cần xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ pháp luật thấp, có hiệu lực, hiệu quả cao, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh trong điều kiện mới.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, kiên quyết, kiên trì thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng, bảo đảm xây dựng bộ máy nhà nước thực sự trong sạch, vận hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân. Tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và các quyền tự do, dân chủ khác, tạo thêm động lực cho cải cách, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thiết chế trong hệ thống chính trị.

Thứ sáu, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả việc tổ chức thi hành pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế, bảo đảm thượng tôn pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử phổ biến trong các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị và trong đời sống thường nhật của cá nhân, doanh nghiệp. Khẩn trương đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về tổ chức thi hành và theo dõi thi hành pháp luật, quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và mọi công dân trong việc thi hành pháp luật và theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

Chú thích:
1, 2. Ban Chấp hành Trung ương. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ngày 26/01/2021.
3. Toàn văn Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. http://quanlynhanuoc.vn, ngày 02/3/2021.
4. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 434.
5. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 232.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII). Báo cáo Tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng, nhiệm kỳ Đại hội XII tại phiên khai mạc Đại hội XIII, ngày 26/01/2021.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương. Rạng danh Tổ quốc cơ đồ Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật và NXB Trẻ, ngày 22/01/2021.
TS. Nguyễn Quang Vinh
Học viện Hành chính Quốc gia