(Quanlynhanuoc.vn) – Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định công tác tôn giáo, trong đó nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động tôn giáo là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc là chính sách nhất quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta, được cụ thể hoá bằng pháp luật và bảo đảm trên thực tế.
Tư duy mới của Đảng về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (viết tắt là Văn kiện Đại hội XIII) tiếp tục khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…”1.
Là một quốc gia đa tôn giáo, nhưng cộng đồng các tôn giáo hoạt động ở Việt Nam luôn gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; đồng thời, là nhân tố xã hội và văn hoá tích cực góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Việt Nam còn là một đất nước rất ôn hòa trong quan hệ giữa các dân tộc, tôn giáo, có truyền thống đoàn kết; đoàn kết toàn dân trong quá trình dựng nước và bảo vệ đất nước. Việc chung sống hòa bình và bao dung giữa các tôn giáo cùng với tính nhân ái, nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo (TNTG) ở Việt Nam: thuần túy nhưng phong phú, đan xen nhưng không mâu thuẫn.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, quan hệ tích cực và mang tính xây dựng giữa các tôn giáo và Nhà nước đã được thể hiện rất rõ và ngày càng được củng cố. Đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có đoàn kết hòa hợp các tôn giáo là nguồn sức mạnh nội sinh và là nhân tố quyết định bảo đảm cho mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo đúng đắn sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những quan điểm cơ bản về tôn giáo nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về TNTG, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đảng ta coi đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, tư duy mới của Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII là thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do TNTG theo hoặc không theo tôn giáo của công dân. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Hơn ai hết, đồng bào các tôn giáo Việt Nam hiểu rất rõ rằng, “Tổ quốc có độc lập, tôn giáo mới tự do”. Đạo và đời ngày càng gắn bó, “Tốt đời đẹp đạo” là mục tiêu và cũng là đạo lý của tất cả các tôn giáo ở Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội XIII Đảng ta chỉ rõ: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”2. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đồng bào theo đạo và đồng bào dân tộc thiểu số. Đảng ta yêu cầu: “Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc”3; chính sách TNTG.
Chính vì vậy, đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam luôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Cùng với đó, cần có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. “Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”4. Theo đó, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hoà quan hệ giữa các dân tộc, tôn giáo, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.
Công tác tôn giáo và quản lý nhà nước về các hoạt động TNTG được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII đã làm rõ nét hơn lộ trình đổi mới tư duy của Đảng ta về vấn đề tự do TNTG. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Sự tồn tại, hoạt động của các TNTG làm phong phú bộ mặt văn hóa tinh thần của đất nước. Tuyệt đại đa số tín đồ, chức sắc, chức việc tôn giáo đều thể hiện xu hướng đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết, chung tay xây dựng và bảo vệ đất nước. Đa phần người Việt Nam đều theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và cùng với nhiều phong tục, lễ hội văn hoá khác nhau. Sự đan xen, hòa đồng nhiều TNTG là một trong những nét văn hoá, đặc trưng của đời sống tự do TNTG ở nước ta. Đảng ta yêu cầu: “Vận động đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”5.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không TNTG của Nhân dân; thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết lương-giáo và giữa các tôn giáo; khắc phục thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời nghiêm cấm lợi dụng TNTG để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương.
Đồng thời, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mội âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”6.
Nhờ có chính sách tôn trọng tự do TNTG của Đảng và Nhà nước ta và việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật Nhà nước của những người có đạo và không có đạo, của các tổ chức tôn giáo, nên hoạt động của các tôn giáo trong những năm qua cơ bản tuân thủ đúng pháp luật; phần lớn chức sắc, tín đồ của các tôn giáo tin tưởng và thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về TNTG. Các tôn giáo thực hiện khá nghiêm túc việc đăng ký lịch sinh hoạt tôn giáo hằng năm; các chức sắc, phật tử tích cực tham gia các phong trào do chính quyền các cấp phát động, như: xóa đói, giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hóa, cứu trợ đồng bào bị lũ lụt, đấu tranh ngăn ngừa các tệ nạn xã hội,… góp phần vào thực hiện các chương trình kinh tế – xã hội của địa phương và góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhờ có chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, hầu hết các cơ sở thờ tự của tôn giáo đều được sửa chữa, tu bổ lại. Những cơ sở thờ tự được xếp hạng di tích – lịch sử văn hóa được tôn tạo, bảo vệ. Các hộ dân lấn chiếm di tích đã được các địa phương và Nhà nước cấp kinh phí để di dời. Nhờ phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, rất nhiều cơ sở tôn giáo được thay đổi, trở thành các điểm sinh hoạt văn hóa sôi động, hình thành các điểm giao lưu của tín đồ.
Tuy nhiên, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc có nơi chưa phát huy được đầy đủ vai trò, sức mạnh của Nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương phù hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân đã thể chế hóa nhưng một số nơi chưa được thực hiện nghiêm túc. “Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm kỷ luật chưc kịp thời chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe”7.
Bên cạnh đó, tình hình tôn giáo vẫn nổi lên một số vấn đề đáng quan tâm. Những năm gần đây, được sự dung dưỡng của các thế lực thù địch nước ngoài, một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo lấy cớ hoạt động tôn giáo để nhen nhóm các tổ chức phản cách mạng, tập hợp lực lượng phản động, tổ chức phát tán tài liệu chống Đảng và Nhà nước ta; lôi kéo, kích động quần chúng tín đồ trong vùng đồng bào theo đạo gây áp lực, đòi yêu sách, gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên diện rộng ở một số tỉnh, thành phố, làm cho tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số địa phương có lúc chưa ổn định.
Giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động tự do TNTG ở Việt Nam hiện nay, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương và cả hệ thống chính trị cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nắm vững và thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây vừa là giải pháp vừa là yêu cầu cần nắm vững và thực hiện tốt chính sách TNTG của Đảng; theo đó thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy, đảng, các bộ, ban ngành, các địa phương, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đối với công tác tôn giáo trong tình hình mới. Chính sách TNTG là vấn đề lớn và hệ trọng, tác động sâu sắc đến đời sống tâm linh, sinh hoạt văn hóa, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của từng địa phương và của cả nước. Giải quyết đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp những vấn đề có liên quan đến TNTG đều ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội của quốc gia và từng địa phương.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị về tôn giáo. Đó là những định hướng và cơ sở pháp lý cơ bản, quan trọng để các cấp, các bộ, ban, ngành, các địa phương nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược này. Đảng ta yêu cầu: “Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”8.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác tôn giáo, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp ở từng địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể, các lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn phối hợp cùng với đồng bào tổ chức học tập, quán triệt sâu rộng và triển khai thực hiện đầy đủ các Nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước về tự do TNTG đối với đồng bào theo đạo. Coi đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, là nhân tố quan trọng hàng đầu để giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên từng địa bàn, địa phương. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước.
Thông qua nhiều hình thức giáo dục như: học tập chính trị; tổ chức các lễ hội truyền thống theo phong tục, tập quán tốt đẹp của từng dân tộc…qua đó khơi dậy truyền thống yêu nước, phát huy tinh thần đoàn kết gắn bó giữa đồng bào theo đạo và đồng bào không có. Coi trọng công tác tuyên truyền, vận động và tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào theo đạo thực hiện tốt bổn phận công dân sống tốt đời đẹp đạo và hoạt động đúng pháp luật. Qua đó, tăng cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc, kiên quyết đấu tranh, đập tan những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn trong mọi tình huống.
Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hiện chính sách TNTG với chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Vấn đề tôn giáo có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại ở nhiều cấp độ (quốc tế, quốc gia, nội bộ từng dân tộc), xuất phát từ bản chất xã hội của tôn giáo, nên khi giải quyết cần đảm bảo mối quan hệ đồng bộ trong thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn. Quan tâm giải quyết nhu cầu TNTG của quần chúng, đồng thời phải làm cho quần chúng nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo phục vụ mưu đồ phá hoại sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tự do theo đạo và không theo đạo của mọi công dân; nghiêm cấm việc ép buộc đồng bào theo đạo hoặc bỏ đạo. Hướng dẫn các chức sắc tôn giáo hoạt động đúng theo hiến chương, điều lệ của giáo hội và tuân thủ các quy định của pháp luật. Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quan hệ với vấn đề dân tộc cần có giải pháp chiến lược lâu dài và cả giải pháp cấp thiết trước mắt.
Cần tập trung giải quyết tốt đời sống kinh tế, văn hoá- xã hội ở vùng đồng bào đồng có đạo bằng thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội; Chương trình 135, Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình quân dân y kết hợp,… Tập trung huy động nguồn nhân lực, vật lực cho đầu tư phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào; ưu tiên đầu tư cho xoá đói, giảm nghèo và giải quyết những khó khăn, bức xúc của đồng bào. Tập trung giải quyết đất sản xuất cho đồng bào, giúp họ thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao thu nhập; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ nhà ở, phát triển y tế, giáo dục trên địa bàn.
Ba là, tích cực chăm lo xây dựng củng cố hệ thống chính trị các cấp, nhất là ở cơ sở vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đây vừa là giải pháp vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài và cấp bách hiện nay của mỗi địa phương, bởi vì hệ thống chính trị các cấp có vững mạnh mới đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành, thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, trong đó có nhiệm vụ quản lý và hoạt động TNTG. Để thực hiện tốt nhiệm vụ giải pháp cơ bản này, đòi hỏi các các cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các địa phương phải đặc biệt coi trọng xây dựng tổ chức đảng, chính quyền các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các phong trào cách mạng ở địa phương, cơ sở.
Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, coi đây là nhân tố quyết định thắng lợi trong giải quyết vấn đề dân tộc và hoạt động TNTG ở địa phương. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, theo phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; tập trung giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân, phát động quần chúng tích cực tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; phối hợp chặt chẽ với các cấp, các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trên địa bàn cùng chăm lo xây dựng địa bàn an toàn, vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, nhất là khi có tình huống xấu xảy ra.
Đồng thời, chủ động phòng ngừa, “Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết dân tộc”9; hoặc những hoạt động, TNTG trái quy định của pháp luật.
Cùng với đó, phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực, khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng của một bộ phận cán bộ, đảng viên. “Kiên quyết phòng chống các biểu hiện bè phái, “lợi ích nhóm” và lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng để xuyên tạc sự thật, kích động, gây rối, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ”10. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện các quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tự do TNTG ở nước ta hiện nay. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; coi trọng hơn nữa công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”11.
Đồng thời, tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong giai đoạn mới ở Việt Nam.
Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021, tr.110, 111, 170, 170-171, 171, 117, 89, 171, 171, 188.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021, tr. 229.
Đại tá, PGS. TS. Trần Nam Chuân
Nguyên cán bộ Viện Chiến lược quốc phòng – Bộ Quốc phòng