Nâng cao năng lực tự chủ trong nghiên cứu khoa học của Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong tiến trình đổi mới và phát triển, Học viện Hành chính Quốc gia (sau đây gọi tắt là Học viện) đã không ngừng kiến tạo nhằm nâng cao năng lực tự chủ trong nghiên cứu khoa học và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, tiến trình này cũng đặt ra những thách thức nhất định. Trong nghiên cứu này, tác giả đề xuất một số giải pháp để nâng cao và phát huy tối đa năng lực tự chủ trong nghiên cứu khoa học của các tổ chức và cá nhân của Học viện trong thời gian tới.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự và trao Huân chương Lao động hạng II cho Học viện Hành chính Quốc gia nhân Lễ Kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Học viện (Ảnh: napa.vn).
Quan niệm về năng lực tự chủ trong nghiên cứu khoa học

Về chất lượng nghiên cứu khoa học (NCKH), có nhiều quan niệm khác nhau. Chúng tôi cho rằng, chất lượng NCKH là việc tối ưu hóa tiến trình cung cấp dịch vụ NCKH và thỏa mãn nhu cầu thụ hưởng sản phẩm NCKH.

Về năng lực NCKH, trước đây, chúng ta thường quan niệm năng lực của một chủ thể NCKH là năng lực nội tại của chính chủ thể đó. Điều này, được thể hiện qua bộ máy, nhân sự và cơ chế hoạt động NCKH trong chủ thể đó. Tuy nhiên, trong thực tế, rất nhiều chủ thể NCKH có đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, nghiên cứu viên… “hùng hậu” nhưng thực tế lại kém hiệu quả, chất lượng trong NCKH. Vậy, đâu là nguyên nhân cho vấn đề này?

Năng lực NCKH của chủ thể là tổng hòa năng lực nội tại và năng lực xã hội. Năng lực này, bao gồm cả các mối quan hệ xã hội và việc thiết lập các đối tác, khách hàng thụ hưởng các sản phẩm khoa học – công nghệ mà chủ thể cung cấp. Năng lực tổng hòa này, không chỉ phụ thuộc năng lực nội tại mà còn phụ thuộc vào năng lực gắn kết, cộng tác với nguồn lực bên ngoài để tạo thành sức mạnh tổng hợp của chính chủ thể đó.

Năng lực tự chủ NCKH là khả năng chủ thể thực hiện NCKH một cách độc lập hoặc phối hợp với đối tác nhằm tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội. Hoạt động NCKH là một chu trình tối ưu năng lực của chủ thể nhằm tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu xã hội. Hình thành năng lực tự chủ NCKH của mọi tổ chức nên dựa trên tiếp cận chu trình tối ưu nêu trên và đồng thời xác lập rõ tự chủ nguồn lực tham gia chính chu trình đó.

Tính tối ưu về NCKH dựa trên hiệu quả và chất lượng của chính chu trình đó tạo ra. Vì vậy, nó không chỉ phụ thuộc vào tốc độ (vận tốc nhanh và thời gian ngắn), phụ thuộc vào biên độ (phạm vi phối hợp rộng hẹp) trong NCKH mà còn tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Mô hình tối ưu này, có thể xem như sự vận hành liên tục của hình xoáy trôn ốc từ dưới lên; càng lên cao tốc độ quay càng cao và phạm vi tiếp xúc với môi trường khoa học – công nghệ càng lớn và kéo theo nguồn lực tự chủ càng cao để phục vụ NCKH.

Bộ máy, nhân sự và nguồn lực tài chính, vật chất nếu không tinh gọn chắc rằng không thể tạo ra tốc độ nhanh và tối ưu trong chu trình NCKH, chưa tính đến cơ chế vận hành thiếu đồng bộ, phi logic và sáng tạo. Vì vậy, muốn tối ưu hóa quy trình thì phải tạo ra cơ chế để mọi nguồn lực tham gia quy trình này được “tự chủ” để vận hành phối hợp đồng hướng.

Từ các phân tích trên, có thể hiểu rằng: tự chủ NCKH là chu trình NCKH tối ưu hóa dựa trên khả năng tự chủ nguồn lực của chủ thể nhằm tạo ra sản phẩm KHCN đáp ứng nhu cầu xã hội.

Kết quả đạt được trong tự chủ hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Hành chính Quốc gia thời gian qua.

Trong tiến trình tự chủ của Học viện thì yêu cầu về tính tự chủ hoạt động NCKH của Học viện là tất yếu. Tác giả xin phân tích và đánh giá dưới hai khía cạnh tự chủ: quản lý và thực thi NCKH của Học viện.

Trong 5 năm trở lại đây (từ 2016 đến nay), công tác quản lý NCKH của Học viện đã có nhiều đổi mới vượt bậc. Trước hết, việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 05/2018/QĐ-TTg ngày 23/01/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia đã đặt ra yêu cầu NCKH của Học viện ở một vị thế cao hơn, chuyên biệt và tầm vực lớn hơn; không chỉ có chức năng NCKH phục vụ phát triển Học viện mà còn nghiên cứu về khoa học hành chính với tầm vực rộng hơn, tư vấn cho Bộ Nội vụ trong lĩnh vực cải cách hành chính và quản lý nhà nước.

PGS. TS. Lương Thanh Cường – Phó Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia phát biểu khai mạc Hội thảo khoa học ” góp ý chương trình bồi dưỡng thứ trưởng và tương đương” năm 2019 (Ảnh: Kim Huy).

Trên cơ sở pháp lý này, Học viện đã tiến hành đổi mới tổ chức NCKH trong Học viện. Theo đó, về tổ chức bộ máy đã xác lập vị trí chủ trì thực hiện chức năng NCKH của Học viện cho Viện NCKH hành chính, vừa được phân công chức năng quản lý, vừa thực thi NCKH. Các đơn vị thuộc và trực thuộc Học viện sẽ phối hợp thực hiện NCKH. Học viện đã bỏ hình thức “Tập san” khoa học phát hành nội bộ tại các khoa, ban… và tập trung công bố nghiên cứu trên Tạp chí Quản lý nhà nước; đổi mới cách thức, tiêu chuẩn đánh giá về NCKH cho cán bộ, giảng viên, viên chức, người lao động trong Học viện. Khuyến khích cá nhân, tổ chức trong Học viện khai thác các đề tài xã hội hóa…

Trong thời gian qua, Học viện đã có thêm ấn phẩm mới là Tạp chí Quản lý nhà nước điện tử, đồng thời, đổi mới và nâng cao chất lượng phản biện khoa học trên cả hai ấn phẩm tạp chí in và điện tử; khuyến khích công bố các kết quả NCKH của Học viện bằng phiên bản tiếng Anh với bạn đọc trong nước và quốc tế… các thành tựu này khẳng định thêm tính tự chủ trong NCKH của Học viện.

Tiến trình đổi mới tổ chức bộ máy của Học viện tiếp tục góp phần nâng cao tính tự chủ trong NCKH, trong đó hình thành nên Trung tâm Ngoại ngữ – Tin học và Thông tin thư viện nhằm đổi mới và tăng cường nguồn thông tin khoa học và cách thức phục vụ nghiên cứu theo hướng cung cấp tài liệu điện tử và tra cứu thuận lợi cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên và bạn đọc trong và ngoài Học viện.

Với lợi thế có đội ngũ cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên có học hàm, học vị; có năng lực NCKH nhiều chuyên ngành của hành chính và quản lý nhà nước, Học viện đã tạo ra sự tự chủ và hình thành nên những sản phẩm khoa học vượt trội, phù hợp, đáp ứng yêu cầu xã hội và phục vụ nhiệm vụ của Học viện. Bên cạnh đó, Học viện còn ký các bản ghi nhớ hợp tác, cộng tác với các tổ chức NCKH và cá nhân nhà khoa học uy tín trong và ngoài nước tham gia NCKH cùng với Học viện. Điều này, góp phần tích cực vào công tác tự chủ NCKH của Học viện.

Các cơ chế quản lý và thực hiện NCKH được đổi mới để tăng tính tự chủ trong NCKH của Học viện. Học viện đã ban hành Quy chế Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ; Quy chế Biên soạn, thẩm định, lựa chọn, duyệt và sử dụng giáo trình, tài liệu; Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng khoa học và đào tạo.

Các cơ chế về NCKH nêu trên đã khuyến khích tính tự chủ và tạo nên những thành quả NCKH khá ấn tượng trong 5 năm qua của Học viện. Cụ thể: Học viện đã tổ chức triển khai thực hiện thành công 332 nhiệm vụ khoa học – công nghệ, trong đó có 3 đề tài khoa học cấp quốc gia; 21 đề tài, đề án cấp bộ, 4 đề tài cấp tỉnh; 237 đề tài cấp cơ sở; 13 đề tài sinh viên NCKH; 7 hội thảo khoa học quốc tế; 11 hội thảo quốc gia; 31 hội thảo cấp học viện; 18 hội thảo, tọa đàm cấp khoa… Học viện đã được giao chủ trì biên soạn, thẩm định, nghiệm thu 174 giáo trình trình độ đại học; 55 đề cương chi tiết giáo trình đào tạo thạc sỹ chuyên ngành quản lý kinh tế; 51 giáo trình đào tạo trình độ thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công, Luật Hiến pháp; Luật Hành chính và Quản lý kinh tế; 1 giáo trình Phương pháp NCKH cho đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ… Chỉ tính đến năm học 2018-2019, giảng viên, viên chức của Học viện đã xuất bản 95 giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo, đăng 408 bài báo trên các tạp chí khoa học trong nước và quốc tế có uy tín2.

TS. Nguyễn Quang Vinh – Tổng Biên tập Tạp chí Quản lý nhà nước phát biểu đề dẫn tại Hội thảo khoa học “Củng cố chương trình, hướng dẫn giảng dạy dân số và phát triển tại Học viện Hành chính Quốc gia” (Ảnh: napa.vn).

Những kết quả trên bước đầu khẳng định tính đúng đắn trong xu hướng và thực thi tự chủ của NCKH trong Học viện. Tuy nhiên, vẫn còn có những hạn chế nhất định trong xác lập chức năng, tổ chức bộ máy, cơ chế, nhân sự và môi trường NCKH của Học viện. Thực tiễn cho thấy, Học viện tham gia và chủ trì các chương trình, đề tài, dự án NCKH cấp nhà nước chưa nhiều; số lượng bài báo công bố quốc tế còn khiêm tốn; chất lượng các công bố khoa học chưa cao; một số chương trình, tài liệu, giáo trình chưa đáp ứng tiến trình và nhu cầu xã hội… Nguyên nhân có nhiều, trong đó có nguyên nhân chưa dành sự quan tâm đúng mức cho hệ thống tổ chức bộ máy về NCKH trong Học viện nhất là 3 đơn vị trực tiếp tham gia nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ NCKH và công bố các công trình nghiên cứu là: Trung tâm Ngoại ngữ – Tin học và Thông tin thư viện; Viện NCKH hành chính và Tạp chí Quản lý nhà nước.

Một số giải pháp nâng cao năng lực tự chủ nghiên cứu khoa học của Học viện giai đoạn tới.

Thứ nhất, nhận diện về động lực của sự tự chủ NCKH trong Học viện:

Tự chủ NCKH không nằm ngoài tiến trình tự chủ của Học viện. Tự chủ có thể nhìn nhận dưới hai tầng bậc: tổ chức và cá nhân. Bản thân mỗi cán bộ, giảng viên, viên chức, người lao động đều là chủ thể NCKH. Tuy nhiên, tự chủ NCKH của mỗi người là khác nhau cả về giá trị và phương thức để đạt và thỏa mãn các giá trị đó. Nền tảng bảo đảm tự chủ NCKH của mỗi cá nhân trước hết là năng lực độc lập NCKH. Ở cấp độ tổ chức, rất khó nhận diện năng lực tự chủ NCKH của nó bởi trong đó là tập hợp các cá nhân với đa dạng giá trị và phương thức để đạt và thỏa mãn các giá trị đó. Nếu không quản lý tốt thì sẽ không những không tích hợp mà còn tạo xung đột giá trị NCKH trong tập thể này. Vì vậy, cần nhận diện tính độc lập NCKH của tổ chức dựa trên sự hợp tác, cộng tác giữa các cá nhân NCKH. Năng lực độc lập là tiền đề, điều kiện cần để phát triển năng lực tự chủ NCKH của mọi cá nhân và tổ chức.

Động lực của tự chủ NCKH chính là sự tích hợp giữa Giá trị – Năng lực độc lập – Phương thức đạt được và thỏa mãn giá trị NCKH của chính chủ thể. Sự tự chủ không thể đến từ bên ngoài mà do chính chủ thể đó quyết định. Không thể trông chờ người khác hoặc môi trường bên ngoài tạo động lực NCKH cho chính mỗi chủ thể NCKH. Chính mình phải tạo động lực NCKH. Nói khác đi, các cá nhân, tổ chức NCKH cần kiến tạo động lực NCKH cũng như môi trường NCKH cho chính mình. Điều này, cho thấy các thể chế và chính sách tạo động lực NCKH không thể đứng trên vai trò quản lý cấp trên để xây dựng mà cần đứng vai trò của cá nhân, tổ chức NCKH ấy để xây dựng.

Tạo động lực cho cá nhân NCKH đã khó nhưng với tập thể trong tổ chức còn khó hơn nhiều. Nó đòi hỏi tìm ra các giá trị chung, năng lực độc lập của tập thể và phương thức đạt được và thỏa mãn giá trị NCKH của tập thể. Cần tìm đến sự thỏa mãn giữa cá nhân và tập thể. Động lực và tạo động lực của cá nhân luôn tích cực khi đặt nó trong mối quan hệ với tập thể. Chỉ trong tập thể thì sự thỏa mãn nhu cầu cá nhân nói chung và NCKH nói riêng mới thể hiện rõ nhất. Do vậy, khi thiết lập, tái cấu trúc, đổi mới tổ chức tự chủ NCKH cần vận dụng rõ các quan điểm nêu trên.

Thứ hai, thiết lập chức năng và tổ chức bộ máy NCKH tự chủ.

Thiết lập tổ chức NCKH tự chủ cần bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ và tối ưu. Tổ chức NCKH căn bản dựa trên hai chức năng: thực hiện NCKH và quản lý NCKH. Việc xác lập các chức năng thành phần trong tổ chức này cần dựa trên cơ sở tạo động lực NCKH của tổ chức ấy, đặc biệt là phương thức đạt được và thỏa mãn giá trị NCKH đó.

Trước hết, về chức năng thực hiện NCKH được thiết lập dựa trên phương thức đạt được và thỏa mãn giá trị NCKH của tổ chức đó. Chu trình NCKH diễn ra theo ba khâu quan trọng: thu thập thông tin – nhận thức và sáng tạo sản phẩm khoa học – công bố sản phẩm khoa học. Ba khâu này sẽ hình thành ba chức năng căn bản trong thực hiện NCKH là: thông tin – nghiên cứu – công bố. Vì vậy, sẽ hình thành 3 đơn vị, nhóm đơn vị căn bản trong thực hiện NCKH trong tổ chức tự chủ NCKH là thư viện; viện/trung tâm nghiên cứu/khoa, ban…; tạp chí khoa học.

Về chức năng, quản lý NCKH được thiết lập dựa trên phương thức đạt được và thỏa mãn giá trị quản lý NCKH của tổ chức tự chủ đó. Chu trình này thường diễn ra theo bốn khâu: lập kế hoạch – tổ chức thực hiện – chỉ đạo – kiểm tra. Tùy thuộc vào vị thế và quy mô của tổ chức tự chủ mà các khâu này có tỷ trọng khác nhau; có thể giảm bớt chức năng lập kế hoạchtổ chức thực hiện và tập trung vào chức năng chỉ đạo kiểm tra. Từ đó, hình thành đơn vị quản lý NCKH một cách độc lập hoặc lồng ghép trong đơn vị khác.

Như vậy, một tổ chức NCKH tự chủ thường có tổ chức bộ máy gồm 4 đơn vị căn bản NCKH: thư viện – viện/trung tâm – tạp chí khoa học – phòng/ban quản lý NCKH. Việc phân tách chức năng quản lý và thực thi NCKH góp phần tăng cường giám sát, kiểm tra, đánh giá NCKH tốt hơn. Ngoài ra, các đơn vị phối hợp NCKH như các khoa, ban, phân viện… là hết sức quan trọng vì có đông đảo đội ngũ tham gia nghiên cứu.

Sẽ là tối ưu nếu chúng ta nhìn nhận các tổ bộ môn, bộ môn trong các khoa, trung tâm… thuộc Học viện như là đơn vị cấu thành trong tổ chức bộ máy NCKH của Học viện. Hiệu quả và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, NCKH của Học viện dựa trên phần lớn của tổ chức này. Vấn đề đặt ra phụ thuộc vào phân cấp, phân quyền và cơ chế tự chủ cho tổ chức này cũng như đến từng cá nhân trong tổ chức đó.

Trong bối cảnh phát triển của Học viện hiện nay, để phát triển bộ máy NCKH tự chủ cần kiến tạo để mỗi cá nhân tham gia NCKH là một bộ máy, một tổ chức NCKH hạt nhân, được trao quyền tự chủ trong tổ chức và thực hiện NCKH. Khuyến khích mỗi cá nhân trong tổ chức không chỉ phát huy năng lực thực hiện mà còn năng lực tổ chức NCKH, như: khai thác, đàm phán, thương thảo, chịu trách nhiệm và quyết định về các dự án, hợp đồng khoa học và công nghệ với đối tác… Như vậy, các cơ chế quản lý, tổ chức hoạt động NCKH phải lưu ý đến phân cấp, trao quyền và phát huy tự chủ NCKH của từng cá nhân và từng đơn vị trong Học viện.

Một cách mở rộng bộ máy tự chủ NCKH của Học viện mà không cần chi phí cho bộ phận này chính là sử dụng cơ chế hợp tác với đối tác bên ngoài trong NCKH. Cơ chế này dựa trên nguyên tắc cùng khai thác, cùng phân chia giá trị đạt được. Vì vậy, Học viện cần lựa chọn và ký kết hợp tác để thu hút nguồn lực.

Một vấn đề rất quan trọng trong tổ chức bộ máy NCKH của Học viện là xác lập vị trí việc làm về NCKH. Đặc biệt là phân loại vị trí nghiên cứu viên, cần đứng trên vị thế của Học viện là cơ quan tư vấn cho Chính phủ về quản lý nhà nước để có cách tiếp cận xác định vị trí nghiên cứu viên. Từ vị trí và chức năng hạt nhân này, sẽ hình thành cấu trúc các cấp quản lý và thực thi từ thấp lên cao; từ ngoài vào trong. Cần ưu tiên phát triển cả về số lượng, chất lượng nhân sự nghiên cứu viên cho Học viện trong thời gian tới để thực sự hình thành các bộ môn nghiên cứu mạnh, các nhóm, hướng nghiên cứu mũi nhọn trong cộng đồng khoa học của Học viện.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện đội ngũ nhân sự tham gia NCKH của Học viện

Hoàn thiện đội ngũ nhân sự tham gia NCKH của Học viện chính là việc lựa chọn số lượng nhân sự phù hợp, tinh gọn gắn với năng lực nghiên cứu hiệu quả, chất lượng và theo yêu cầu tinh giản biên chế của Học viện. Vì vậy, cần xây dựng đội ngũ NCKH không chỉ có năng lực thực hiện mà còn năng lực tổ chức, quản lý NCKH. Tích hợp này tạo sự chủ động trong từng cá nhân thành viên NCKH. Nó không chỉ khuyến khích họ khai thác và quyết định các dự án nghiên cứu mà còn chủ động đánh giá và thực hiện chính các dự án nghiên cứu. Từ đó, sẽ tác động và hình thành tính tích hợp này đến đơn vị, tổ chức trong Học viện.Cần hình thành khung và tiêu chuẩn về năng lực NCKH trong Học viện để chuẩn hóa đội ngũ này, đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng, tư vấn chính sách về quản lý nhà nước.

Nâng cao năng lực tự chủ NCKH của Học viện nên tiếp tục phát triển mở rộng nhân sự nghiên cứu theo hướng hình thành các đối tác, tổ chức nghiên cứu hỗ trợ và thông qua cơ chế sử dụng “nguồn lực bên ngoài”. Đối tác là các cá nhân, tổ chức khoa học trong nước và quốc tế phục vụ NCKH của Học viện. Các đối tác này có thể được chính thức hóa thông qua ký các ghi nhớ hợp tác (MOU) và triển khai trong thực tế.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách hoạt động NCKH của Học viện theo hướng phục vụ nhu cầu xã hội.

Trên nền tảng tiến bộ của quy chế quản lý và hoạt động NCKH của Học viện hiện có, nên bổ sung, hình thành các quy định, quyết định về tổ chức bộ máy và nhân sự; trong đó thể hiện rõ vị trí, chức năng, vai trò, phân cấp, phân quyền cho tổ chức, cá nhân theo hướng nâng cao năng lực tự chủ. Đặc biệt, phải lấy “văn hóa dịch vụ” làm nền tảng để hình thành nên nhóm các quy định này.

Động lực của sự tự chủ là giá trị và phương thức đạt được và thỏa mãn giá trị của chính cá nhân và tổ chức. Vì vậy, cơ chế, chính sách NCKH của Học viện phải làm dựa trên giá trị và phương thức đạt và thỏa mãn giá trị này để hình thành. Cân bằng giá trị giữa cá nhân và tập thể; khuyến khích các giá trị maketting, khai thác và thu hút các dự án NCKH trong cơ chế, chính sách NCKH của Học viện…

Vượt qua các rào cản về chính sách, cơ chế hoạt động theo mô hình quản trị hành chính, Học viện tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng dịch vụ khoa học – công nghệ; nâng cao năng lực NCKH thông quacộng tác, từ đó nâng cao năng lực của mỗi thành viên trong tổ chức và khai thác triệt để năng lực tự thân của họ. Điều này có nghĩa, cần xây dựng cơ chế, chính sách để mỗi một thành viên có chức năng, nhiệm vụ khai thác, tổ chức dịch vụ khoa học – công nghệ, đồng thời, phát huy chức năng, nhiệm vụ thực hiện NCKH của bản thân. Nên đổi mới, dịch chuyển mạnh mẽ hơn nữa “cơ chế” để mỗi thành viên trong Học viện nói chung, của các cộng tác viên nói riêng chuyển từ trạng thái văn hóa “phải làm” sang “muốn làm” và “thích làm”. Cơ chế này, cần ưu tiên các giá trị cho nhân viên trực tiếp khai thác dịch vụ và thực hiện các hoạt động NCKH.

Thứ năm, tiếp tục phát huy và nâng cao môi trường và điều kiện phục vụ tự chủ NCKH của Học viện.

Môi trường quan trọng nhất trong phục vụ NCKH của Viện NCKH hành chính trong bối cảnh phát triển công nghiệp 4.0 và trí tuệ nhân tạo (AI) chính là “nguồn thông tin bổ ích” cho nghiên cứu. Học viện cần đầu tư và xây dựng “thư viện điện tử” nguồn tài liệu điện tử phục vụ nghiên cứu. Đồng thời, cần tăng cường liên kết với các đối tác quốc tế để có các tài liệu điện tử quốc tế. Từ đó, tổ chức các nguồn này theo nhóm, bộ môn nghiên cứu; hình thành các khối tài liệu điện tử hữu ích cho phù hợp với đối tượng là chủ thể nghiên cứu.

Một môi trường đặc biệt quan trọng nữa đó là môi trường gắn kết cộng đồng NCKH theo mục tiêu của Học viện. Cộng đồng càng đông đảo thì sức tự chủ NCKH càng mạnh mẽ. Theo đó, Học viện nên tiếp tục hợp tác, kết nạp các thành viên nghiên cứu trong nước và quốc tế, để từ đó có các nhà khoa học quốc tế tham gia các hội đồng khoa học của Học viện.

Tiếp tục phát huy và nâng cao năng lực tự chủ NCKH cho Học viện Hành chính Quốc gia cần một giải pháp tổng thể. Các giải pháp cần thực hiện theo logic và phát triển tổ chức tự chủ. Động lực của tự chủ NCKH chính là sự cân bằng giá trị, phương thức đạt được và thỏa mãn giá trị giữa các bên tham gia NCKH trong Học viện. Từ đó, xác lập chức năng, tổ chức bộ máy, nhân sự, chính sách, cơ chế hoạt động và môi trường NCKH. Học viện cần quan tâm và tiếp tục đầu tư hơn nữa để nâng cao năng lực tự chủ NCKH, xứng tầm với vị thế là trung tâm quốc gia về nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC của đất nước.

Chú thích:
1. Nguyễn Minh Sản. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Hành chính Quốc gia. Tạp chí Quản lý nhà nước, số 305 (tháng 6/2021), tr. 110-113.
Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định số 05/2018/QĐ-TTg ngày 23/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia.
2. Quyết định số 1218/QĐ-HCQG ngày 11/4/2018 của Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu Khoa học hành chính.
3. Michael Hammer và James Champy. Tái lập công ty. Vũ Tiến Phúc (dịch). H. NXB Trẻ, 2006.
4. Peter Doyle. Marketing dựa trên giá trị. Tường Vân, Cam Thảo (dịch). NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh,2009.
5. Tạ Quang Tuấn. Tiếp cận Lean trong giáo dục. Tạp chí Giáo dục, số 277, kỳ I, tháng 1/2012.
TS. Tạ Quang Tuấn
Học viện Hành chính Quốc gia