Minh bạch tài sản, thu nhập – giải pháp phòng ngừa xung đột lợi ích trong thi hành công vụ hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Minh bạch tài sản thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức là biện pháp nhằm biết rõ thông tin về thu nhập và chuyển hóa của thu nhập thành các dạng tài sản, chi tiêu dùng, chi đầu tư của cán bộ, công chức, viên chức. Đây cũng chính là cơ chế phòng ngừa hiệu quả, đấu tranh và loại bỏ hành vi tham nhũng, loại trừ xung đột lợi ích, gắn với trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản. Bài viết đánh giá các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức theo quy định pháp luật hiện hành, thực trạng và các giải pháp đặt ra.

Minh bạch tài sản thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức

Theo Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN) năm 2018 quy định “công khai là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị công bố, cung cấp thông tin chính thức về văn bản, hoạt động hoặc về nội dung nhất định” và “minh bạch tài sản, thu nhập là việc kê khai tài sản thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai và khi cần thiết được xác minh, kết luận”. Công khai, minh bạch là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm công bố hoặc phổ biến để mọi người dân có thể biết, có thể tiếp cận được một cách dễ dàng.

Có thể hiểu, minh bạch tài sản, thu nhập (TSTN) của cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) là việc công bố, giải trình, xác minh thông tin về TSTN của CBCCVC nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCTN. Trong đó, việc công bố thông tin về TSTN phải xuất phát từ việc người có nghĩa vụ phải kê khai thực hiện kê khai TSTN và được cơ quan có thẩm quyền công khai bản kê khai TSTN đó.

Giải trình là việc tự giải thích, chứng minh của người có nghĩa vụ kê khai về việc hình thành TSTN tăng thêm so với lần kê khai trước đó.

Xác minh TSTN là việc xem xét, đánh giá, kết luận của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền về tính trung thực, chính xác của việc kê khai TSTN theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.

Minh bạch TSTN của CBCCVC giúp cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền biết được TSTN của người có nghĩa vụ kê khai nhằm minh bạch TSTN của người đó; phục vụ cho công tác quản lý CBCCVC góp phần phòng ngừa và ngăn chặn hành vi tham nhũng.

Minh bạch TSTN là nền tảng của sự liêm chính trong hoạt động của bộ máy nhà nước, phòng ngừa xung đột lợi ích trong thực thi công vụ. Để Nhân dân đặt niềm tin vào Đảng và Nhà nước thì trước tiên, người có chức vụ, quyền hạn phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, là tấm gương tiêu biểu về liêm chính. Công khai, minh bạch TSTN cũng vừa giúp CBCCVC hiểu rõ hơn vị trí, chức trách, nhiệm vụ của mình, đồng thời, cũng nhận thức được rằng người dân và xã hội đang giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình theo đúng quy định; từ đó cũng giám sát nguồn gốc, biến động TSTN của mình… để tự bản thân có sự điều chỉnh phù hợp, thanh liêm hơn, trong sạch hơn.

Minh bạch TSTN của CBCCVC, một mặt, thể hiện tính nghiêm minh của Nhà nước trong công tác quản lý cán bộ, mặt khác, thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Minh bạch TSTN quy định quyền, đồng thời quy định trách nhiệm, nghĩa vụ tương ứng mà người có chức vụ, quyền hạn phải thực hiện để bảo đảm sự trong sạch cho những cá nhân làm việc trong nền hành chính công.

Hạn chế, vướng mắc về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức trong quy định pháp luật và tổ chức thực hiện

Pháp luật về công khai, minh bạch TSTN phải giải quyết hài hòa mối quan hệ bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tại Điều 21 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn”. Vì vậy, việc quy định đối tượng nào, tài sản gì phải kê khai phải thận trọng, để tránh xâm phạm đến quyền công dân và có cơ sở pháp lý.

Luật PCTN  năm 2018 với 25 điều quy định về kê khai, kiểm soát TSTN của CBCCVC (từ Điều 30 – 54) có một số nội dung thay đổi so với Luật PCTN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012). Theo đó, đối tượng phải kê khai tài sản bao gồm tất cả CBCCVC, chỉ phải kê khai lần đầu và sau đó, mỗi khi được bầu, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, hay giữ chức vụ mới hoặc có biến động tài sản tăng thêm của mình, của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên với giá trị 300 triệu đồng trở lên sẽ thực hiện việc kê khai bổ sung và không phải kê khai lại những thông tin đã kê khai trước đó. Việc mở rộng đối tượng phải kê khai TSTN xuất phát từ quan điểm cho rằng, đây là một bước đi cần thiết để hình thành đồng bộ hệ thống dữ liệu quốc gia về bản kê khai, qua đó, giúp kiểm soát có hiệu quả những biến động về TSTN của họ khi thuộc đối diện phải kê khai hằng năm. Tuy nhiên, việc mở rộng đối tượng kê khai TSTN phải cân nhắc trong bối cảnh hiện nay, đối tượng quá rộng, khó kiểm soát, dẫn đến sức ép về năng lực tổ chức thực hiện cho cơ quan có thẩm quyền. Chỉ nên thu hẹp ở các vị trí có nguy cơ tham nhũng cao như nhóm đối tượng dân cử, những người giữ chức vụ từ giám đốc sở và tương đương trở lên.

Việc mở rộng phạm vi TSTN phải kê khai, các khoản chi tiêu lớn, tiền lãi từ ngân hàng, tiền chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị theo bảng giá do Nhà nước ban hành trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thu nhập từ đầu tư sản xuất nông nghiệp thuộc diện TSTN phải kê khai, các lợi ích vật chất hoặc phi vật chất khác. Biến động tài sản từ 300 triệu trở lên phải kê khai bổ sung. Thời điểm kê khai TSTN trước ngày 31/12 hằng năm. Bản kê khai TSTN phải được công khai tại cơ cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.

Việc kê khai không trung thực về TSTN có thể bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức kỷ luật đối với CBCCVC. Trường hợp quy hoạch vào các chức danh lãnh đạo, quản lý có thể bị ra khỏi danh sách quy hoạch, trường hợp xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể xem xét không kỷ luật…

Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của Chính phủ ban hành về kiểm soát TSTN của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan tổ chức đơn vị và một số biện pháp thi hành Luật PCTN về kiểm soát TSTN, hướng dẫn chi tiết thủ tục quy trình kê khai tài sản, đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, công khai bản kê khai, xử lý hành vi vi phạm đối với người kê khai, phương thức xác minh kê khai bản thu nhập theo kế hoạch hằng năm…

Báo cáo của Chính phủ về công tác PCTN năm 2018 cho thấy, số người đã kê khai TSTN là 1.081.235 người, đạt tỷ lệ 99,4% số đã kê khai, có 46 người được xác minh thu nhập. Qua xác minh phát hiện 10 trường hợp vi phạm (tăng 4 trường hợp so với cùng kỳ năm trước). Đã xử lý kỷ luật 8 trường hợp, đang xem xét xử lý kỷ luật 2 trường hợp (Bộ Công an: 2 người, Đà Nẵng: 1 người, Khánh Hòa: 2 người, Tây Ninh: 2 người, Thanh Hóa: 1 người)1. Năm 2019 không tiến hành kê khai TSTN do chờ hướng dẫn mới của Thanh tra Chính phủ. Như vậy, việc kê khai tài sản lần đầu, đồng thời công khai bản kê khai và nộp bản kê khai TSTN cho cơ quan kiểm soát TSTN đang được triển khai trên khắp cả nước.

Đánh giá pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về kê khai TSTN từ Luật PCTN năm 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành còn có một số khó khăn, vướng mắc:

Thứ nhất, việc kê khai, công khai TSTN chỉ mang tính hình thức, hầu như không hiệu quả, chỉ dựa vào ý thức tự giác của người có nghĩa vụ kê khai, chưa giúp cho các cơ quan chức năng kiểm soát được những biến động về TSTN của đối tượng kê khai và phát hiện biểu hiện tham nhũng, không kiểm tra, xác nhận, không kê khai nguồn gốc, không giải trình tăng, giảm TSTN, bản kê khai TSTN được quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ cán bộ, do vậy rất khó phát giác những tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng; bản kê khai chỉ được sử dụng để xác minh khi bổ nhiệm hoặc có đơn tố cáo, chưa có quy định xử lý người và tài sản kê khai gian dối cho nên chưa tạo nên sự răn đe, tác dụng ngăn ngừa PCTN chưa cao.

Thứ hai, tổ chức thực hiện công khai, minh bạch TSTN còn chậm, bỏ sót đối tượng. Việc phân công cơ quan đầu mối tham mưu, tổng hợp báo cáo, đôn đốc và kiểm tra việc kê khai TSTN còn chưa thống nhất; có nơi giao cơ quan thanh tra, có nơi giao cho cơ quan nội vụ, tổ chức và sự phối hợp giữa cơ quan đầu mối về kê khai TSTN với Ủy ban kiểm tra Đảng các cấp chưa đồng bộ, kịp thời. Báo cáo còn chậm, số liệu báo cáo chưa chính xác, trùng lặp do chưa thống nhất phạm vi quản lý đối tượng kê khai, nhất là đối với cơ quan tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn, đối tượng thuộc diện cấp ủy quản lý; quy định về nội dung, phạm vi tiêu chí “đơn vị kê khai” không thống nhất cho nên tổng hợp rất lúng túng và chưa giúp các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo dõi được biến động về tài sản của người có nghĩa vụ phải kê khai.

Thứ ba, CBCCVC kê khai và nộp cho cơ quan quản lý, cơ quan quản lý CBCCVC chỉ làm nhiệm vụ lưu hồ sơ mà chưa có cơ chế giải trình, kiểm tra, xác minh để bảo đảm việc kê khai tài sản minh bạch, trung thực. Đặc biệt, do không có chế tài xử lý đối với những trường hợp có hành vi gian dối, nên chưa bảo đảm được sự chính xác, trung thực đối với hồ sơ kê khai.

Việc giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm là cần thiết và phù hợp với việc hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp nhưng thực tiễn thực hiện ở Việt Nam là khó khăn vì: thực tế, ngoại trừ lương, một số khoản phụ cấp và thu nhập công khai, Nhà nước ta chưa kiểm soát được các thu nhập khác của CBCCVC. Có thể thấy, thu nhập của CBCCVC gồm 2 nguồn: chính thức và không chính thức  nhưng làm thế nào để chứng minh được nguồn thu nhập khi xác minh kê khai TSTN và phương thức kiểm soát, kê khai, tính biến động của tài sản mang tính phổ biến như thế nào; ai quản lý; quản lý ra sao còn nhiều bất cập. Mặt khác, do sự biến động quá lớn về giá cả, nhất là về nhà đất nên có những người do điều kiện và cơ hội khác nhau có thể có những thu nhập và tài sản khó có thể giải trình được.

Đặc biệt, pháp luật Việt Nam cũng không có quy định cấm CBCCVC tham gia đầu tư chứng khoán hay nhà đất để kiếm lợi (trừ những vấn đề xung đột lợi ích như đang tham gia quản lý nhà nước về đất đai, đại điện cho Nhà nước trong đầu tư công…). Việc chưa kiểm soát chặt chẽ thu nhập của CBCCVC đang là kẽ hở để một số người có thể hợp pháp hóa những khoản tiền hoặc tài sản mà họ chiếm đoạt được thông qua hành vi tham nhũng, tiêu cực, gây khó khăn cho việc xác minh kê khai TSTN.

Thứ tư, tác dụng phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng thông qua biện pháp kê khai TSTN còn rất hạn chế, chưa bảo đảm yêu cầu về minh bạch TSTN của người có nghĩa vụ kê khai.

Theo quy định pháp luật, công khai bản kê khai tài sản được thực hiện theo hai hình thức là niêm yết tại trụ sở cơ quan, tổ chức, đơn vị và công khai tại cuộc họp. Hơn nữa, việc kê khai TSTN mới chỉ dựa vào sự tự giác của người phải kê khai, còn việc phát hiện thông tin không trung thực trong việc kê khai TSTN từ phía chủ thể bên ngoài là CBCCVC – làm việc tại nơi người có nghĩa vụ kê khai là rất hạn chế, vì trên thực tế, những chủ thể này rất khó biết được thực chất số lượng tài sản của người có chức vụ, quyền hạn và thông thường, vì sợ bị trù dập nên họ “ngại” tố cáo trong trường hợp biết được lãnh đạo kê khai TSTN không đúng. Ngoài ra, việc áp dụng pháp luật tố cáo đối với việc tố cáo về hành vi không trung thực trong việc kê khai TSTN cũng là một hạn chế khi người tố cáo chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình.

Thứ năm, việc xác minh TSTN nhằm làm rõ tính trung thực của việc kê khai ít được quan tâm thực hiện hoặc thực hiện không triệt để, mang tính hình thức nên số người vi phạm bị phát hiện còn ít, việc xử lý vi phạm còn chậm và chưa được công khai kịp thời. Việc kê khai thiếu trung thực bị xử lý rất ít, chỉ vài vụ/năm, chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với số lượng bản kê khai tài sản; có ngành, địa phương không có trường hợp nào phải xác minh và xử lý về kê khai TSTN không trung thực. Nhiều vụ việc chỉ đến lúc cơ quan điều tra vào cuộc, khi có dấu hiệu phạm tội, nhiều khối tài sản bất minh của bị can, bị cáo nguyên là CBCCVC mới bị phát hiện.

Thứ sáu, khi triển khai Luật PCTN năm 2018, Nghị định số 130/2020/NĐ-CP có một số vấn đề như sau2: (1) Có nhiều cơ quan kiểm soát TSTN cùng kiểm soát một đối tượng. Trong bộ máy nhà nước hiện nay vừa có người giữ chức vụ trong bộ máy chính quyền địa phương vừa giữ chức vụ trong đảng và cơ quan kiểm soát là thanh tra tỉnh, cơ quan có thẩm quyền của Đảng… vậy cơ chế phối hợp hoặc phân định thẩm quyền như thế nào để tránh sự chồng chéo, trùng lặp trong công tác kiểm soát. (2) Thẩm quyền kiểm soát TSTN như của Thanh tra tỉnh, Thanh tra Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quy định theo luật, nghị định là khá rõ, tuy nhiên, các đối tượng như cán bộ tương đương giám đốc sở tại bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập, cơ quan, tổ chức do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, doanh nghiệp nhà nước, nếu phụ cấp là 0,9 thì sẽ do Thanh tra Chính phủ hay do bộ, ngành, thanh tra tỉnh kiểm soát? Trong khi chỉ có trường hợp giám đốc sở và tương đương trở lên mới chịu sự kiểm soát của Thanh tra Chính phủ, vậy Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh thuộc sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền nào? (3) Việc kê khai theo Luật PCTN năm 2018 và Nghị định số 130/2020/NĐ-CP là kê khai lần đầu. Vậy các bản kê khai trước đây sẽ được xử lý như thế nào, có mối quan hệ như thế nào đối với việc kiểm soát TSTN?

Một số giải pháp đặt ra

Một là, tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật về PCTN, trong đó minh bạch TSTN mà trọng tâm là kê khai, xác minh TSTN, phương thức xác minh tài sản theo quy định Luật PCTN năm 2018, triển khai tổ chức thi hành Luật PCTN năm 2018 và văn bản hướng dẫn thi hành với phương thức xác minh TSTN hằng năm được thực hiện theo kế hoạch hằng năm và lựa chọn ngẫu nhiên. Việc xác minh cần chú trọng vào các vị trí lãnh đạo cao nhất của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Hai là, hoàn thiện pháp luật về minh bạch TSTN nhằm kiểm soát thực chất hơn TSTN của người có chức vụ quyền hạn, loại bỏ tính hình thức và quy định những trường hợp cơ quan có thẩm quyền phải chủ động tiến hành xác minh TSTN; thực hiện nghiêm túc yêu cầu giải trình và trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm, giải trình những giao dịch, những khoản chi tiêu có giá trị lớn hoặc có dấu hiệu bất thường, những khoản tiền gửi ngân hàng với số lượng lớn, quy định các chế tài xử lý hành vi vi phạm trong minh bạch TSTN như không trung thực, không giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm, những giao dịch có giá trị lớn và xử lý tài sản không kê khai, tài sản tăng thêm không được giải trình một cách hợp lý; bổ sung quy trình kiểm soát việc thực hiện của cán bộ làm công tác kiểm soát TSTN tránh tình trạng lạm quyền, sử dung thông tin tài sản sai mục đích, ban hành bộ quy tắc ứng xử của cán bộ làm công tác kiểm soát TSTN, quy trình khiếu nại và giài quyết khiếu nại đối với các quyết định của cơ quan kiểm soát TSTN.

Ba là, thực hiện nghiêm túc việc kê khai TSTN, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu trong vấn đề này, tăng cường kiểm tra giám sát việc kê khai TSTN thông qua các kênh như phản ánh thông tin công khai, dấu hiệu làm giàu không chính đáng, tài sản tăng lên bất thường được phát hiện từ tố giác của người dân, xác minh đối với tất cả các trường hợp người có nghĩa vụ kê khai tài sản; việc giải trình phải thực chất, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của người có nghĩa vụ kê khai TSTN.

Bốn là, xử lý nghiêm việc kê khai không trung thực, không giải trình được nguồn gốc tài sản tăng thêm, vi phạm các quy định về việc kê khai TSTN.

Năm là, tăng cường quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đảng viên, CBCCVC về mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của việc kê khai và kiểm soát việc kê khai TSTN để phát huy tính tự giác, trung thực và ý thức trách nhiệm của từng đảng viên, CBCCVC trong việc công khai, minh bạch TSTN.

Chú thích:
1. Báo cáo số 481/BC-CP ngày 12/10/2018 của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018.
2. Ngô Mạnh Hùng. Một số vấn đề đặt ra trong việc triển khai thực hiện Nghị định số 130/2020/NĐ-CP. Tạp chí điện tử Thanh tra, ngày 13/4/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg ngày 24/8/2007 của Thủ tướng chính phủ về trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Kế hoạch số 863/KH-DDA ngày 25/3/2014 của Bộ Tư pháp về thực hiện Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân” (gọi tắt là Đề án 4061) năm 2014.
3. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005.
4. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
5. Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của Chính phủ về việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh
Học viện Hành chính Quốc gia