Thúc đẩy hoạt động chuyển giao ứng dụng các kết quả nghiên cứu của trường đại học vào doanh nghiệp

(Quanlynhanuoc.vn) – Công nghệ được coi là công cụ nhằm nâng cao chất lượng và tăng sức cạnh tranh sản phẩm. Trong đó, các trường đại học chính là nơi chủ yếu tạo ra công nghệ và tài sản trí tuệ. Việc nghiên cứu khoa học là nguồn chính để tạo ra các sáng chế có thể thương mại hóa. Tuy nhiên, vấn đề liên kết, hợp tác và chuyển giao công nghệ vẫn còn nhiều hạn chế. Bài viết nghiên cứu đề xuất cách thức thúc đẩy các hoạt động chuyển giao và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của trường đại học vào doanh nghiệp hiện nay.
Ảnh minh họa (internet).
Thực trạng chuyển giao và thương mại hóa các kết quả, sản phẩm khoa học và công nghệ

Trên thực tế, việc sáng tạo, chuyển giao tri thức và thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ (KHCN) từ các viện, trường đại học và các tổ chức nghiên cứu ra ngoài xã hội, đặc biệt, việc ứng dụng các tiến bộ KHCN vào trong sản xuất đã góp phần tạo nên sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội. Các viện nghiên cứu, trường đại học là cái nôi để tạo ra tri thức và các kết quả, sản phẩm, sáng chế có khả năng chuyển giao, thương mại hóa; ứng dụng trên thị trường. Sự thành công của hoạt động nghiên cứu khoa học tại viện, trường được thể hiện ở những công bố khoa học, số lượng bằng sáng chế được công bố, li-xăng, các doanh nghiệp (DN) KHCN mới được thành lập, hay các kết quả nghiên cứu được chuyển giao đã góp phần tăng trưởng kinh tế – xã hội cũng như góp phần phát triển bền vững kinh tế tại Việt Nam1.

Hiện nay, tình hình chuyển giao và thương mại hóa công nghệ trong các trường đại học ở Việt Nam đang có rất nhiều chuyển biến và thay đổi tích cực. Nhận thức của DN về vai trò của KHCN, đổi mới KHCN ngày càng tăng. Trong các trường đại học, viện nghiên cứu, nghiên cứu khoa học đã ngày càng gắn với thực tiễn nhiều hơn. Chính sách của Nhà nước ngày càng khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để liên kết trường đại học và các doanh nghiệp, phát triển thị trường KHCN, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Nhiều luật, nghị định liên quan đến vấn đề này như: Luật KHCN, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ… cũng đã tạo ra các hành lang pháp lý phù hợp để thúc đẩy mối liên kết này.

Bên cạnh những thuận lợi, việc thương mại hóa công nghệ trong các trường đại học ở Việt Nam vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn cần khắc phục. Từ phía trường đại học, nhu cầu và khả năng liên kết với DN chưa cao do thiếu động lực và thiếu cơ chế gắn kết, sản phẩm KHCN còn ít và kém chất lượng, năng lực và trang thiết bị còn hạn chế, thời gian nghiên cứu dài, trong khi nhu cầu DN cần sớm có công nghệ, thiếu cơ quan chuyên trách hiểu biết và gắn kết với DN2.

Còn từ phía DN, phần lớn là DN Việt Nam với quy mô nhỏ, quy trình sản xuất đơn giản, tài chính hạn chế, khó có điều kiện liên kết. Các DN vẫn chưa quan tâm đúng mức đến cơ chế đầu tư tài chính cho việc nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ, thẩm định giá công nghệ… Ngoài ra, còn có một vấn đề “nhạy cảm” là vấn đề bảo mật kinh doanh, nhiều DN vẫn chưa thật sự tin tưởng vào các trường đại học…

Về phía Nhà nước, còn nhiều chính sách ưu tiên cho trường công lập nên trường đại học và các DN vẫn chưa tích cực liên kết với nhau. Thông tin từ các chính sách khuyến khích chưa được phổ biến đầy đủ, kịp thời; thiếu cơ quan chuyên môn xúc tiến liên kết trường đại học – DN. Bên cạnh đó, nhận thức và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) còn yếu kém nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến thương mại hóa các kết quả nghiên cứu và hoạt động sáng tạo tại các trường đại học3.

Thực trạng trên một phần là do các nghiên cứu có tiềm năng ứng dụng chưa nhiều; một số nghiên cứu có tiềm năng ứng dụng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu thương mại hóa; nhà khoa học chưa chủ động và tích cực trong việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu; năng lực để DN đổi mới công nghệ còn thấp; môi trường kết nối giữa DN và nhà sáng chế đã có tác dụng bước đầu nhưng hiệu quả chưa cao; khó khăn trong đàm phán thương mại…

Hoạt động chuyển giao công nghệ trong trường đại học hiện nay đã được tăng cường hơn trước, song thương mại hóa công nghệ vẫn còn yếu, chưa đồng bộ và tồn tại nhiều hạn chế. Một số trường đại học chưa quản lý, thống kê được số lượng các hoạt động thương mại hóa công nghệ, các tác giả tự chuyển giao kết quả nghiên cứu mà không xin phép. Nhiều sáng chế công nghệ chưa hoàn thiện, đòi hỏi một quá trình đầu tư lâu dài mới có thể ứng dụng, khai thác thương mại được. Một số tác giả có sáng chế nhưng quá thận trọng trong việc hợp tác và vẫn chưa sẵn sàng chuyển giao công nghệ. Họ muốn nhanh chóng thu lợi ích từ việc chuyển giao sáng chế công nghệ, không muốn hợp tác chung tay phát triển công nghệ với nhà đầu tư…

Các trường đại học, viện nghiên cứu là nơi tập trung các hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ và lưu giữ hầu hết các kết quả nghiên cứu, sáng chế. Mặc dù không ít viện, trường đã đạt được nhiều thành công trong việc chuyển giao công nghệ, thương mại hóa các sáng chế nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, con số này chưa tương xứng với tiềm năng4.

Có thể coi một trong số những yếu tố giữ vai trò quan trọng giúp thương mại hóa công nghệ thành công tại Việt Nam chính là quyền SHTT.

Việc sử dụng, bảo hộ, thương mại hóa tài sản trí tuệ và tuyên truyền kiến thức về SHTT không chỉ là mối quan tâm của Nhà nước, trường đại học mà còn của rất nhiều DN. Nhận thức và kiến thức về SHTT đang tăng lên đáng kể.

Tuy nhiên, tình hình bảo hộ quyền SHTT hiện nay ở nước ta chưa thực sự mạnh, số lượng đơn đăng ký sáng chế công nghệ còn ít, trong đó, chủ yếu là ngân hàng và kinh doanh công nghệ. Tình trạng xâm phạm quyền SHTT đang là vấn đề nhức nhối với nhiều diễn biến phức tạp. Tại các trường đại học, SHTT đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Vi phạm quyền SHTT đã gây tâm lý chán nản, mất động lực cho người nghiên cứu khoa học và những người làm công tác chuyển giao công nghệ.

Nguyên nhân của vấn đề này có nhiều, nhưng chủ yếu vẫn thuộc về các DN, nhà khoa học và nhà quản lý. Về phía các DN, do thiếu thông tin về khả năng chế tạo của các nhà khoa học trong nước, thiếu sự tin cậy đối với các sản phẩm còn mang tính “nghiên cứu”, chưa được thử nghiệm nên chưa mạnh dạn tìm mua những sản phẩm này, mà thường chọn phương án nhập khẩu thiết bị, công nghệ nước ngoài với giá cao nhưng có vẻ bảo đảm, ít mạo hiểm và rủi ro hơn.

Về phía nhà khoa học, do thiếu điều kiện để triển khai các ý tưởng khoa học, triển khai thực nghiệm, hoàn thiện công nghệ từ các đề tài nghiên cứu và thiếu kinh phí để triển khai, thiếu thông tin về nhu cầu của DN, nên hoạt động nghiên cứu chưa sát với nhu cầu của thực tế sản xuất, chưa tạo được lòng tin đối với các DN. Vì vậy, những kết quả nghiên cứu chưa được thương mại hóa.

Về phía nhà quản lý, do trong khâu tuyển chọn đầu vào còn mang nặng tính hành chính cơ chế xin – cho, nên phần lớn đề tài, dự án chưa xuất phát từ những đòi hỏi của thực tế sản xuất hay từ những vấn đề của DN. Bởi vậy, những thiết bị, công nghệ được tạo ra từ các đề tài, dự án trên không được các DN sử dụng mua bán. Hơn nữa, chưa có được một chính sách hay một chiến lược cụ thể hỗ trợ các nhà khoa học cũng như DN để các kết quả nghiên cứu đến với thực tế sản xuất, qua đó, thương mại hóa chúng. Thực tế cho thấy, chúng ta mới chỉ quan tâm làm sao để các đề tài, dự án cho ra được kết quả nghiên cứu, còn việc kết quả đó đến với thực tế sản xuất như thế nào thì còn thả nổi hoặc chỉ dừng lại ở những giải pháp mang tính tuyên truyền, khuyến khích một cách hình thức… Trong khi, từ kết quả nghiên cứu của các đề tài, dự án tới việc áp dụng thực tế còn một khoảng cách khá xa.

Hơn nữa thực trạng hiện nay cho thấy, việc chậm thương mại hóa các tài sản trí tuệ phần lớn là do chính bản thân các tác giả nghiên cứu, sáng chế chưa chủ động khai thác thương mại sản phẩm của mình. Kết quả khảo sát tại các viện nghiên cứu, trường đại học cho thấy, sau khi hoàn thành đề tài, phần lớn các nhà nghiên cứu thường chuyển sang thực hiện các đề tài khác. Nghiên cứu đã được nghiệm thu thường không được chú ý khai thác các bước tiếp theo.

Năm 2020, Cục SHTT đã tiếp nhận 8.368 đơn đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích, tăng khoảng 3,1% so với năm 2019. Trong khi số lượng đơn đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích của các chủ thể nước ngoài giảm 2% thì số lượng đơn đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích của các chủ thể Việt Nam tăng 35% (1.505 đơn đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích năm 2020 so với 1.115 đơn năm 2019). Điều này chứng tỏ rằng, nhu cầu và nhận thức về việc bảo vệ quyền đối với sáng chế của các tổ chức và cá nhân trong nước đã có sự gia tăng đáng kể. Đây là kết quả trong công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về việc bảo vệ quyền SHTT, tập huấn kỹ năng tra cứu thông tin và viết bản mô tả sáng chế cho các viện nghiên cứu, trường đại học, DN và các nhà nghiên cứu5. Tuy nhiên, nếu bản thân các nhà sáng chế chưa chủ động khai thác thương mại sản phẩm của mình thì các trường đại học, viện nghiên cứu cũng chưa tích cực trong vấn đề này.

Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách và nỗ lực đầu tư để thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ trong DN. Cùng với việc ban hành các Chương trình quốc gia với trọng tâm thúc đẩy nâng cao năng lực công nghệ của DN thông qua các hoạt động đổi mới quy trình và đổi mới sản phẩm công nghệ. Đồng thời đã nỗ lực hình thành thêm các kênh hỗ trợ tài chính theo hình thức Quỹ, như: Quỹ Phát triển KHCN quốc gia, Quỹ Phát triển KHCN của địa phương, Quỹ Phát triển KHCN của DN, đặc biệt là Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia.

Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 cũng đã được Chính phủ phê duyệt. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030: số lượng DN thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 20%/năm; 100% DN sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm; có 8 – 10 ngành sản xuất sản phẩm làm chủ hoặc tạo ra công nghệ tiên tiến có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường; năng suất lao động cao hơn ít nhất 2 lần khi chưa đổi mới công nghệ; khoảng 10.000 kỹ sư, kỹ thuật viên và cán bộ quản lý được tập huấn, đào tạo6.

Để đổi mới công nghệ, Chính phủ và các cơ quan nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đang phát triển. Cần bảo đảm tính bền vững lâu dài của các chương trình, đề án tài chính phục vụ các hoạt động đổi mới công nghệ. Các quỹ đổi mới theo từng lĩnh vực cụ thể cần được hình thành để giải quyết các thách thức mang tính quốc gia. Việc đánh giá các dự án đổi mới một cách chi tiết là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công.

Cùng với đó, sở hữu trí tuệ phải được coi là định hướng chính cho các cơ chế tài chính đổi mới công nghệ để bắt kịp với các nước công nghệ tiên tiến; cần tăng cường các cơ chế phân phối của Quỹ Đổi mới công nghệ thông qua việc liên tục giám sát và đánh giá các kết quả đổi mới; cần thiết lập các nền tảng quốc gia tích hợp hỗ trợ cả về tài chính và kỹ thuật.

Giải pháp thúc đẩy hoạt động chuyển giao và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu trong trường đại học ứng dụng tại doanh nghiệp

Thứ nhất, đối với nhà khoa học, nghiên cứu.

Nhà nước, Bộ KHCN, các trường đại học cần tăng cường cơ chế, chính sách, tài chính,…. để cho các nhà khoa học, nghiên cứu có đủ điều kiện triển khai thực hiện hoạt động chuyển giao và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu một cách chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, hỗ trợ nhà khoa học, nghiên cứu tiếp cận các nguồn cơ sở dữ liệu, thông tin về DN, xu hướng chuyển giao, thương mại hóa các sản phẩm KHCN trên thế giới.

Đẩy mạnh hoạt động đầu tư xây dựng một số viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm và tập thể khoa học mạnh, đạt trình độ khu vực để kích thích sự sáng tạo của các nhà khoa học, nhất là các nhà khoa học trẻ; ưu tiên thích đáng cho các nhiệm vụ ươm tạo công nghệ và tìm kiếm bí quyết công nghệ để sớm tự chủ công nghệ và tạo ra các DN với tỷ suất lợi nhuận cao.

Xây dựng và hướng dẫn các tổ chức TTO/TLO tại trường đại học và các cơ sở nghiên cứu thực hiện hỗ trợ công tác đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, quy trình chuyển giao và thương mại hoá công nghệ một cách bài bản và chuyên nghiệp nhằm khai thác hiệu quả cả ba dạng sản phẩm KHCN tạo ra từ chương trình nghiên cứu. Đồng thời, mỗi TTO/TLO này cũng cần phải tự thiết lập ngân hàng công nghệ và tham gia ngân hàng công nghệ mở trên thế giới. Cơ sở dữ liệu này đóng vai trò quan trọng không chỉ trong việc quản lý đề tài, nghiên cứu của các trường mà còn tránh các nghiên cứu trùng lặp, tham khảo và biết được trên thế giới đã có những công nghệ gì, công nghệ nào của trường có tiềm năng và nên đăng ký SHTT.

Tổ chức nhiều các hội thảo; sự kiện trưng bày, giới thiệu sản phẩm công nghệ sẽ là cơ hội hợp tác, kết nối các kết quả nghiên cứu và công nghệ mới, chia sẻ kinh nghiệm, giải pháp kết nối cung cầu công nghệ hiệu quả giữa các viện nghiên cứu, nhà khoa học và DN, từng bước thúc đẩy kết nối cung cầu khoa học và công nghệ.

Xây dựng bộ chỉ số phát triển thương mại hoá sản phẩm KHCN để đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu các trường đại học và cơ sở nghiên cứu. Bộ chỉ số sẽ giúp Nhà nước có căn cứ quyết định, xây dựng kế hoạch hỗ trợ hoặc tiếp tục đầu tư KHCN cho các cơ sở nghiên cứu, phục vụ quản lý hoạt động KHCN minh bạch và hiệu quả. Mặt khác, việc xây dựng bộ chỉ số và xếp hạng các đơn vị sẽ khích lệ các trường và cơ sở nghiên cứu luôn đổi mới tổ chức và thực hiện nhiệm vụ KHCN phù hợp với nhu cầu thực tế, nâng cao tính cạnh tranh và vị thế hoạt động KHCN của Việt Nam trên bản đồ khoa học công nghệ thế giới.

Thứ hai, đối với DN.

Nhà nước, cần có các chính sách hỗ trợ DN đầu tư cho nghiên cứu, phát triển đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ cao… thông qua các quỹ đổi mới công nghệ trực thuộc Bộ KHCN hay các quỹ đầu tư cho đổi mới sáng tạo. Hỗ trợ các DN đặc biệt là các DN vừa và nhỏ tiếp cận với các công nghệ tiên tiến từ đó từng bước rút ngắn khoảng cách giữa các DN và nhà khoa học.

Tăng cường các hoạt động khảo sát, tiếp xúc với DN, kết nối cung cầu công nghệ giữa khu vực DN trong nước với các viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước theo nhu cầu của DN.

Hoạt động chuyển giao và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu tại trường đại học và viện nghiên cứu được tạo nên từ mối liên kết chặt chẽ giữa ba nhà (nhà quản lý, nhà khoa học và DN). Chính vì vậy, để thúc đẩy phát triển việc thương mại hóa tại trường đại học và viện nghiên cứu thì cần phải hỗ trợ thúc đẩy phát triển đồng đều các yếu tố của thị trường KHCN; đồng thời, cần hoàn thiện hành lang pháp lý cho các bên tham gia vào thị trường KHCN. Rút ngắn khoảng cách giữa trường đại học và DN sẽ thúc đẩy hoạt động chuyển giao, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, đồng thời ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao năng suất, gia tăng giá trị sản phẩm; thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước.

Chú thích:
1. Lê Thị Khánh Vân. Nâng cao vai trò liên kết giữa viện – trường đại học – doanh nghiệp trong việc chuyển giao công nghệ/Kỷ yếu Hội thảo: “Vai trò của khoa học và công nghệ với phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam’’, tháng 11/2018.
2, 3. Vương Quốc Thắng. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ: Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam/Kỷ yếu Hội thảo: “Vai trò của khoa học và công nghệ với phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam”, tháng 11/2018.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ – Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Chuyển giao tri thức và thương mại hóa kết quả nghiên cứu công: Các xu hướng và chính sách mới. Tổng luận Khoa học Công nghệ – Kinh tế, số 3/2014, tr. 1 – 64.
5. Cục Sở hữu Trí tuệ. Báo cáo thường niên hoạt động sở hữu trí tuệ 2020. H. NXB Thanh niên, 2021.
6. Quyết định số 118/2021/QĐ-TTg ngày 25/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017.
2. Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013.
3. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2015.
Vũ Hồng Trang
Đại học Quốc gia Hà Nội