Đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền đô thị ở Việt Nam hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương nói chung, trong đó có chính quyền đô thị là một chủ trương lớn được Đảng và Nhà nước ta, hướng tới xây dựng, củng cố chính quyền vững mạnh, phục vụ Nhân dân ngày một tốt hơn. Trên cơ sở nghiên cứu yêu cầu tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, bài viết tập trung đánh giá thực trạng và kiến nghị một số giải pháp đổi mới tổ chức chính quyền đô thị ở Việt Nam hiện nay.
Ảnh minh họa (internet)
Yêu cầu tổ chức bộ máy chính quyền đô thị ở Việt Nam

Mục tiêu đặt ra của chính quyền đô thị (CQĐT) trong điều kiện đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một mô hình tổ chức bộ máy CQĐT gọn nhẹ, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả, phát triển kinh tế-xã hội và phục vụ Nhân dân tốt hơn theo hướng đổi mới toàn diện các vấn đề về quản lý đô thị, cải cách hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức. Để đáp ứng yêu cầu quản lý đô thị, tổ chức bộ máy CQĐT ở Việt Nam hiện nay cần đáp ứng một số yêu cầu sau:

(1) Tổ chức bộ máy CQĐT theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và các quy định của Hiến pháp, pháp luật.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam nói chung và tổ chức bộ máy CQĐT nói riêng. Đảng đề ra đường lối, chủtrương nhằm xây dựng, đổi mới, hoàn thiện CQĐT, bảo đảm vừa phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước qua từng thời kỳ, vừa giữ vững được bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Từ đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyển hoá quan điểm của Đảng thành các quy định trong Hiến pháp và pháp luật xác định rõ vị trí, tính chất, chức năng, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước làm cơ sở cho việc thiết kế tổ chức bộ máy CQĐT. Trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và nguyên tắc “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật1; quá trình đổi mới tổ chức bộ máy CQĐT ở Việt Nam hiện nay, cần thực hiện theo các nội dung trong Nghị quyết của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ; đồng thời, tuân thủ quy định của Hiến pháp, pháp luật. Ngay cả việc làm thí điểm cũng phải được quyết định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

(2) Tổ chức bộ máy CQĐT phải bảo đảm sự thống nhất trong vận hành của bộ máy nhà nước.

Sự thống nhất trong vận hành từ trung ương tới địa phương là yếu tố giúp cho bộ máy nhà nước hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. CQĐT là một bộ phận thuộc bộ máy nhà nước, vì vậy, trong đổi mới, hoàn thiện tổ chức chính quyền phải chú ý đến sự ăn khớp, đồng bộ ở cơ cấu nội tại và mối quan hệ bên ngoài xét theo chiều ngang và chiều dọc. Các đặc điểm của đô thị đặt ra vấn đề quản lý nhà nước ở đô thị phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và liên thông trên mọi khía cạnh của quản lý nhà nước như tổ chức bộ máy, cơ chế, phương thức quản lý, thẩm quyền và trách nhiệm… Để bảo đảm sự thống nhất trong vận hành yêu cầu đặt ra là phải phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của các cơ quan nhà nước, các công việc thuộc thẩm quyền của mỗi cấp để tránh trùng lặp. Bên cạnh đó, phải thực hiện cơ chế phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau, kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa trung ương và địa phương, giữa các ngành và các cấp chính quyền để CQĐT có thể hoàn thành tốt những nhiệm vụ, quyền hạn được trao.

(3) Tổ chức bộ máy CQĐT cần linh hoạt phù hợp với mỗi loại hình đô thị.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, dựa vào các tiêu chí quy mô dân số; chức năng đô thị; không gian kiến trúc và cảnh quan để phân chia đô thị thành 6 loại. Các đô thị khác nhau rất lớn về chức năng, quy mô dân số, mật độ dân số, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp so với tổng số lao động, chất lượng cơ sở hạ tầng và cả kiến trúc cảnh quan. Về cấp quản lý, cũng có sự khác biệt lớn, có đô thị trực thuộc Trung ương, có đô thị trực thuộc cấp tỉnh và đô thị trực thuộc huyện. Mặt khác, giữa vùng nội thành và vùng ngoại thành đang đô thị hoá cũng có sự khác nhau rõ ràng về tính chất. Chính vì vậy, tổ chức bộ máy CQĐT cần được tổ chức linh hoạt, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của mỗi loại đô thị, không nhất thiết phải có đủ ba cấp chính quyền giống như mô hình ở nông thôn.

(4) T chức bộ máy CQĐT phải đáp ứng yêu cầu chủ động, sáng tạo, phục vụ nhân dân tốt hơn.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng tiếp tục khẳng định phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp là trọng tâm thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững2. Yêu cầu này đỏi hỏi việc tổ chức bộ máy CQĐT cần có sự phân cấptrong quản lý đô thị, phân quyền rành mạch giữa tự quản của CQĐT địa phương và chính quyền trung ương. Việc phân cấp, phân quyền cho CQĐT làm tăng thêm tính chủ động, sức sáng tạo, phục vụ nhân dân tốt hơn, bảo đảm quốc phòng an ninh. Mặt khác, phân định rõ thẩm quyền cho CQĐT chính là để tăng thêm trách nhiệm, tự quản của các đô thị trên cơ sở thống nhất quyền và lợi ích của quốc gia và địa phương.

(5) Tổ chức CQĐT phải đáp ứng yêu cầu đề cao trách nhiệm người đứng đầu.

Kinh nghiệm quản lý đô thị ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, mô hình một người đứng đầu đô thị chịu trách nhiệm quản lý khá hiệu quả. Ở Việt Nam, để hoàn thiện tổ chức CQĐT thì lãnh đạo các cấp của CQĐT cần “phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và phải được trao quyền quyết định tương ứng về tổ chức, cán bộ3. Vì vậy, cần nghiên cứu mở rộng thẩm quyền cho người đứng đầu CQĐT. Thẩm quyền đó phải bao quát toàn diện các lĩnh vực của đô thị từ ban hành chính sách, pháp luật, ngân sách, tài chính cho đến vấn đề an ninh, môi trường, trật tự đô thị… Song, đi kèm với đó là trách nhiệm rất lớn, mọi sai sót trong chất lượng dịch vụ công đều có thể quy về trách nhiệm cho người đứng đầu và buộc người đó phải từ chức hoặc bị người dân bãi nhiệm. Thực hiện điều này sẽ góp phần giải quyết được khó khăn trong vấn đề xác định “trách nhiệm của người đứng đầu”.

Tình hình thực hiện tổ chức bộ máy chính quyền đô thị ở Việt Nam

Thứ nhất, bước đầu có sự phân biệt CQĐT với chính quyền nông thôn. Theo đó, tổ chức CQĐP ở đô thị bao gồm HĐND, UBND ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, thị trấn, phường. Mặc dù chưa có sự khác biệt rõ nét nhưng bước đầu đã có sự phân biệt về tên gọi, chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, ngoài việc thực hiện những thẩm quyền chung, CQĐT còn tập trung quyết định các vấn đề quy hoạch phát triển đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, sắp xếp mạng lưới thương mại, dịch vụ, du lịch đô thị, quản lý dân cư và tổ chức đời sống dân cư đô thị, các biện pháp bảo đảm trật tự công cộng, an toàn giao thông, phòng, chống cháy nổ, bảo vệ môi trường và cảnh quan đô thị,…

Thứ hai, việc tổ chức mô hình CQĐT với hai hệ thống song song là chính quyền thành phố – quận (thị xã) – phường (thị trấn) dành cho khu vực nội thành, chính quyền thành phố – huyện – xã dành cho khu vực ngoại thành như hiện tại đã đáp ứng được yêu cầu giải quyết tình trạng “trong đô thị có nông thôn” đang tồn tại ở tất cả các đô thị của Việt Nam hiện nay; đồng thời, bảo đảm khả năng phát triển hài hòa giữa nông thôn với đô thị, từ mức sống, lối sống, điều kiện thụ hưởng đời sống vật chất và văn hóa, gắn với nó là đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông thôn (điện, đường, trường, trạm, viễn thông, truyền thông…) và dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội…) có chất lượng, không tạo khoảng cách quá lớn giữa nông thôn ngoại thành và đô thị nội thành. Tránh xảy ra tình trạng ranh giới, không chỉ ở sự phân định về địa giới hành chính, mà còn sự chêch lệch về trình độ phát triển kết cấu hạ tầng – kỹ thuật, mức sống, lối sống, chất lượng sống, tạo nên bất bình đẳng giữa nông thôn với đô thị.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, việc tổ chức CQĐT trong thời gian qua ở Việt Nam còn nhiều hạn chế.

Một là, thực tiễn tổ chức bộ máy CQĐT hiện nay là chưa bảo đảm kịp thời thể chế hoá và thực hiện đầy đủ, chính xác quan điểm, đường lối của Đảng, quy định của Hiến pháp.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, XI, XII, XIII luôn xác định nhiệm vụ quan trọng đó là hoàn thiện tổ chức CQĐP phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt4, nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp, phân quyền. Từ quan điểm, đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 đã có sự phân biệt CQĐT và chính quyền nông thôn. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, mô hình tổ chức bộ máy CQĐP dường như vẫn cơ bản giống nhau ở tất cả các ĐVHC lãnh thổ với hệ thống CQĐP được tổ chức chung là 3 cấp cho cả CQĐT và nông thôn, sự khác biệt là không đáng kể.

Theo quy định của Nghị định số 108/2020/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP, quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Nghị định số 107/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện cũng không có sự khác biệt về số lượng, tên gọi so với trước.

CQĐP cơ bản được thiết kế giống nhau trong khi ngay cả những đặc điểm cơ bản về diện tích tự nhiên, quy mô dân số theo quy định còn nhiều khác biệt. Các đơn vị hành chính, nhìn chung quy mô nhỏ, nhiều đơn vị không bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định, nhất là cấp huyện, cấp xã5. Tổ chức và hoạt động của CQĐP nói chung, CQĐT nói riêng chậm đổi mới, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng. Để chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện đòi hỏi phải tiếp tục rà soát, điều chỉnh, sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động của CQĐT có sự phân biệt rõ ràng với chính quyền nông thôn.

Hai là, việc tổ chức bộ máy CQĐT ở Việt Nam chưa phù hợp với đặc thù của đô thị.

Thực tiễn đô thị ở Việt Nam có sự khác biệt về diện tích tự nhiên, quy mô dân số… Trong khi đó, tổ chức bộ máy CQĐT chưa có sự khác biệt rõ ràng so với ở nông thôn; bao gồm HĐND và UBND các cấp ở đô thị được đánh giá là cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối bên trong, chồng chéo, trùng lắp; chưa sát với đặc điểm, tính chất của mỗi loại hình đơn vị hành chính, chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu quản lý và phát triển đô thị.

Các mô hình đặc thù mới chỉ được quyết định ở mức độ thí điểm cho Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và cũng mới được thực hiện từ ngày 01/7/2021. Trong khi đó, yêu cầu đòi hỏi của đời sống xã hội thành thị là phải nhanh phù hợp với sự vận động nhanh của xã hội thành thị do vậy, nếu tổ chức cấp chính quyền giống như ở nông thôn, làm chậm trễ sự chuyển tải thông tin trong CQĐT mất thời gian, qua nhiều tầng nấc cả chiều dọc lẫn chiều ngang.

Ba là, chưa thể hiện rõ nét vai trò của cá nhân người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

Nguyên tắc “UBND hoạt động theo chế độ tập thể UBND kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch UBND”6 chứa đựng nhiều bất hợp lý, cũng đang là trở ngại đáng kể đối với việc nâng cao năng lực của chính quyền nhà nước nói chung và nhất là đối với CQĐT nói riêng. Với việc thực hiện chế độ tập thể (uỷ ban) trong quản lý hành chính hiện nay, các quyết định chủ yếu, quan trọng nói chung đều phải do tập thể uỷ ban quyết định, vai trò trách nhiệm, thẩm quyền cá nhân người đứng đầu (chủ tịch UBND) rất hạn hẹp. Điều đó một mặt làm cho tính tập trung, thống nhất, nhanh nhạy, quyết đoán trong quản lý điều hành hành chính bị chậm chạp, hạ thấp mặt khác lại là chỗ dựa cho việc thiếu trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu. Để giải quyết nhanh chóng, triệt để các vấn đề của đô thị, phục vụ tốt hơn nhu cầu của nhân dân, CQĐT đòi hỏi phải phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể UBND và chủ tịch UBND; đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở đô thị.

Bốn là, tổ chức bộ máy CQĐT Việt Nam tạo ra sự chia cắt lãnh thổ đô thị, chưa bảo đảm tính thống nhất trong quản lý và vận hành đô thị vốn mang tính chất liên hoàn, đồng bộ.

Xét về bản chất đô thị là một thể thống nhất, hoàn chỉnh, phải bảo đảm tính thông suốt của hệ thống hạ tầng – kỹ thuật (giao thông, cấp điện, cấp nước, thoát nước…) trên phạm vi toàn đô thị theo quy hoạch thống nhất; việc lập các đơn vị quản lý hành chính bên trong không được phép tạo nên khả năng chia cắt lãnh thổ đô thị và xung đột với quyết định hành chính do chính quyền thành phố ban hành. Thực tiễn tổ chức CQĐT ở Việt Nam bao gồm các cấp chính quyền, trong đó ở mỗi cấpquận, phường đều được trao thẩm quyền ban hành quyết định, chính sách quản lý theo địa bàn được phân cấp; đôi khi dẫn đến sự mâu thuẫn, xung đột, trong khi ranh giới hành chính giữa các quận, phường chỉ là một con đường, một cây cầu. Việc chia nhỏ cấp chính quyền không chỉ làm phân tán nguồn lực, đầu mối quản lý mà còn dẫn đến xu hướng phân tán, tuỳ tiện trong hoạt động quản lý, vận hành, thực thi các quyết định điều hành đô thị.

Năm là, mối quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức bộ máy CQĐT chưa hợp lý, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao.

Thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp chính quyền chưa được phân định rõ ràng, quyền lực không đủ mạnh, các điều kiện về tổ chức, cán bộ, tài chính, ngân sách, cơ sở vật chất để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn chưa bảo đảm để thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp. Do phân cấp, phân quyền cho địa phương chưa thực sự phù hợp và đồng bộ nên nhiều công việc cơ quan CQĐT có khả năng giải quyết nhưng không có quyền giải quyết, các cơ quan cấp trên không có khả năng giải quyết hiệu quả nhưng lại có quyền giải quyết, dẫn đến nhiều công việc ùn tắc, chậm trễ, kém hiệu quả.

Một số kiến nghị nhằm đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền đô thị ở Việt Nam

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về đổi mới tổ chức bộ máy CQĐT.

Trong quá trình đổi mới tổ chức bộ máy CQĐT, có thể phải sáp nhập nhiều đơn vị hành chính, cơ quan, tổ chức; ít nhiều gây ra sự xáo trộn trở ngại đối với người dân, doanh nghiệp, cũng như khó khăn trong sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức, viên chức và giải quyết chế độ dôi dư. Vì vậy, phải đổi mới từ tư duy, nhận thức của mọi thành phần xã hội thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động tạo sự thống nhất về nhận thức và thực hiện trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân ở địa phương về chủ trương đổi mới tổ chức bộ máy CQĐT. Đối với những nơi dư luận còn có ý kiến khác nhau thì cấp ủy, chính quyền cần kiên trì vận động, thuyết phục để tạo sự đồng thuận của nhân dân rồi mới tiến hành các trình tự, thủ tục theo quy định.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy CQĐT.

Tiếp tục sửa đổi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy CQĐT theo hướng thể chế hoá kịp thời các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về đổi mới CQĐT. Cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa mô hình tổ chức hoạt động của CQĐT với chính quyền nông thôn, đổi mới cơ cấu tổ chức, định rõ chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền và phương thức hoạt động phù hợp đối với CQĐT theo quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm CQĐT hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, các đô thị phát triển nhanh và bền vững, tạo động lực phát triển các vùng, miền, khu vực trong cả nước và ở mỗi địa phươn. Theo đó, cần: (1) Ban hành Luật Tổ chức CQĐT riêng để có điều kiện quy định cụ thể, chi tiết hơn về các mô hình tổ chức bộ máy CQĐT, khắc phục tình trạng quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh về tổ chức bộ máy CQĐT; (2) Sửa đổi, bổ sung Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 cho phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch năm 2017, cần sửa đổi khoản 2 Điều 17; khoản 1 Điều 24; khoản 1 Điều 47; Điều 53, 54, 55; (3) Sửa đổi Nghị quyết 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 về phân loại đô thị, rà soát, sửa đổi một số tiêu chí về phân loại đô thị phù hợp với tính đặc thù của từng vùng miền trong tình hình mới và thống nhất với quy định về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính. (4) Chính phủ sớm ban hành nghị định hướng dẫn Luật sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức CQĐP năm 2019.

Thứ ba, thiết kế mô hình tổ chức bộ máy tinh gọn, thông suốt, hiệu quả, phù hợp với từng loại đô thị.

Các đô thị ở nước ta có những đặc điểm chung, tuy nhiên, cũng có sự khác biệt. Vì vậy, cần đổi mới mô hình tổ chức bộ máy CQĐT. Không tổ chức đầy đủ 3 cấp CQĐP ở đô thị như hiện nay. Về nguyên tắc, mỗi đô thị dù lớn hay nhỏ cũng chỉ tổ chức một cấp chính quyền đầy đủ có HĐND và UBND (cơ quan hành chính). Cấu trúc của đô thị là đơn nhất cho nên chỉ có một bộ máy chính quyền duy nhất. Tuy nhiên, nếu là đô thị lớn thì thêm cánh tay nối dài quận và phường, và trong trường hợp này quận và phường chỉ là những cơ quan hành chính, không phải là cấp chính quyền (có đầy đủ HĐND và UBND). Theo mô hình này, ở mỗi đô thị chỉ có một cơ quan HĐND, có vai trò quyết định các vấn đề kinh tế – xã hội của đô thị, còn tại các đơn vị hành chính nội bộ đô thị (quận, phường) chỉ có các cơ quan hành chính nhà nước để thực thi các nhiệm vụ cụ thể của quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công trên từng địa bàn theo phân cấp và uỷ quyền của chính quyền thành phố, thị xã. Điều này phù hợp với đặc điểm, tính chất tập trung thống nhất cao của đô thị.

Thứ tư, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho CQĐP về tổ chức bộ máy. Việc phân cấp cho CQĐT về tổ chức bộ máy nên được thực hiện theo hướng: căn cứ quy định khung của các cơ quan ở Trung ương, các đô thị được quyền quyết định bộ máy giúp việc, quy định chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận giúp việc và được phân cấp cho chính quyền cấp dưới thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của địa phương, bảo đảm nguyên tắc quản lý thống nhất, thông suốt trên địa bàn và bảo đảm sự kiểm tra, giám sát, chế tài của cơ quan có thẩm quyền7. Ngoài những tổ chức “cứng” theo quy định của Chính phủ, chính quyền cấp tỉnh có quyền căn cứ vào thực tế của địa phương để quyết định thành lập hoặc giảm bớt những tổ chức giúp việc hoặc các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công khác; xác định tổng biên chế của các cơ quan hành chính nhà nước và quyết định việc phân bố cán bộ, công chức cho các cơ quan thuộc UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, và số lượng cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã.

Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức CQĐT.

Cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy CQĐT theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, hội nhập, có năng lực chuyên môn cao, kỹ năng thực thi công vụ giỏi, “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”8. Nhà nước cần quy định cụ thể về tiêu chuẩn đối với cán bộ mỗi cấp phù hợp với vị trí việc làm, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương, “ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao”9 bảo đảm đủ năng lực hoàn thành có hiệu quả những nhiệm vụ, quyền hạn được trao.

Thứ sáu, tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước của CQĐT. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định một nội dung trong các đột phá chiến lược là “tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”10. CQĐT cần được kiểm soát bởi các tổ chức của Đảng, các cơ quan nhà nước thông qua sự giám sát của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ quốc hội; thông qua kiểm tra, thanh tra Chính phủ, các bộ; thông qua hoạt động xét xử của Toà án, phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và Nhân dân.

Bên cạnh đó, cần nâng cao hơn nữa cơ chế tự kiểm soát của CQĐT. Theo đó, phải: (1) Đổi mới chế độ bầu cử để nâng cao trách nhiệm của đại biểu đối với cử tri. (2) Cần tăng đại biểu chuyên trách củaHĐND thành phố để có thể tiến tới chế độ chuyên nghiệp nhằm kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền của mình. (3) Hội nghị đối thoại với nhân dân, tiếp xúc cử tri phải được ấn định thời gian, địa điểm cụ thể, thông tin để người dân có thể đến dự, tránh tình trạng “cử tri chuyên trách” do có giấy mời mới được tham dự. (4) Định kỳ có văn bản trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri. (5) Hoàn thiện cơ chế bãi miễn đại biểu của cử tri.

Hoàn thiện tổ chức và hoạt động chính quyền nói chung, tổ chức bộ máy CQĐT nói riêng ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩalà một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta. Để đổi mới tổ chức bộ máy CQĐT ở Việt Nam hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, từ đổi mới về nhận thức đến hoàn thiện cơ sở pháp lý; sắp xếp và thiết kế mới mô hình đặc thù cho từng đô thị; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; kiểm soát quyền lực nhà nước… Bên cạnh đó, phải có lộ trình, vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời.

Chú thích:
1. Điều 8, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
2, 4, 8,10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2021, tr. 175,178,179, 203.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia, 2016, tr.310.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
6. Điều 5, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015.
7. TS. Nguyễn Văn Cương (Chủ biên).Về phân định thẩm quyền giữa chính quyền trung ương và CQĐP tại Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia, 2015, tr. 22.
9. Kết luận 14-KL/TW ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1, 2), NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
2. PGS.TS. Đoàn Minh Huấn. Một số ý kiến về tổ chức CQĐT trong dự thảo Luật Tổ chức CQĐP, Kỷ yếu hội thảo góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Tổ chức CQĐP, tháng 3/2015.
3. Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; Quỹ Châu Á. CQĐT tại Việt Nam: Nghiên cứu tình huống từ thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, 2013.
TS. Vũ Ngọc Hà
Học viện Chính trị khu vực I