Phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Văn hóa là lĩnh vực rộng lớn, được Đảng xác định đóng vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hội nghị Văn hóa 2021: Thủ tướng Phạm Minh Chính dự chương trình nghệ thuật đặc biệt ‘Niềm tin và khát vọng’. Trong ảnh, Thủ tướng tặng hoa cho các nghệ sĩ, diễn viên. (Ảnh: Dương Giang-TTXVN).
Lịch sử các hội nghị toàn quốc về văn hóa

Trong lịch sử lãnh đạo của Đảng, Trung ương Đảng đã có 2 lần tổ chức hội nghị toàn quốc về văn hóa, lần thứ nhất tổ chức vào ngày 24/11/1946, lần thứ hai tổ chức ngày 16/7/1948. Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 đúng kịp kỷ niệm 75 năm Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức (24/11/1946).

Tại Hội nghị lần thứ nhất năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới dự và đọc diễn văn khai mạc. Người đã nhấn mạnh: Văn hóa phải gắn bó, liên hệ mật thiết với chính trị; văn hóa phải tham gia vào sửa đổi những thói lười biếng, tham nhũng; phải làm thế nào để mỗi người dân được hiểu về nghĩa vụ và quyền lợi mà họ được hưởng; “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”1. Đó là những tư tưởng lớn của Người mà đến nay, chúng ta vẫn luôn quán triệt và làm theo.

Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 sẽ khai mạc tại Thủ đô Hà Nội ngày 24/11, đánh giá việc triển khai đường lối, chủ trương, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ; kết quả xây dựng văn hóa, con người Việt Nam sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ.

Đây cũng là dịp cổ vũ, động viên các nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sỹ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong ý chí, hành động; liên kết các lực lượng làm công tác văn hóa, văn nghệ trong và ngoài nước tạo thành một mặt trận đồng lòng, dốc sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại.

Khơi dậy nguồn sức mạnh nội sinh

Tại Đại hội XIII của Đảng, khát vọng và tầm nhìn của Đảng và Nhân dân Việt Nam trong thời đại mới đã được xác định rõ với mục tiêu cụ thể: đến năm 2025, là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát huy giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thật sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế”2; “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”3.

Phát triển mạnh mẽ nền văn hóa và con người Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đứng trước yêu cầu cấp thiết là phải bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là các giá trị văn hóa truyền thống và cách mạng; đấu tranh chống các khuynh hướng đồng hóa, nô dịch về văn hóa.

Đồng thời, coi trọng việc tiếp thu tinh hoa văn hóa, khoa học, giáo dục của nhân loại để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam tiến kịp, tiến cùng thời đại.

Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, mà cốt lõi là làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, cũng chính là quá trình xây dựng con người, phát huy tối đa nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người – khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa, phát triển bền vững đất nước. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, trở thành sức mạnh nội sinh, động lực đột phá cho phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Văn hóa đó phải: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển”4. Cùng đó, lần đầu tiên Đảng ta đã nêu yêu cầu trong nghị quyết Đại hội XIII: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam”5.

Sức mạnh mềm của văn hóa

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, bên cạnh việc phát huy sức mạnh tổng hợp quốc gia, như: về chính trị, kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, con người, nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ… thì nguồn lực văn hóa đang được nhiều quốc gia coi là một “sức mạnh mềm” quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao vị trí, vai trò trên trường quốc tế.

Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng 54 dân tộc anh em sáng tạo nên trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Những giá trị đó được kết tinh trong các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, tạo thành truyền thống dân tộc, những phong tục, tập quán, cách ứng xử… làm nên bản sắc riêng của văn hóa Việt Nam. Hệ giá trị và bản sắc văn hóa đó đã tạo nên sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam.

Xuất phát từ những điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt, với chiều dài hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam có những giá trị, phẩm chất độc đáo, đó là: Nồng nàn yêu nước, nhân văn, tinh tế trong ứng xử, sáng tạo trong lao động, giản dị trong lối sống, tinh thần cố kết cộng đồng, là lòng khoan dung, cởi mở; giàu năng lực tiếp biến. Những giá trị văn hóa ấy đã gắn kết các cá nhân thành cộng đồng, cùng chung tay dựng xây đất nước, đoàn kết bảo vệ non sông, cùng chia sẻ những nỗi đau trong thiên tai, địch họa và cùng khát vọng về một cơ đồ tươi sáng “sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”6. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là điều kiện để thực hiện lý tưởng cao đẹp của dân tộc ta là xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh, con người được ấm no, hạnh phúc.

Thực tiễn phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định vị thế quan trọng của văn hóa, con người trong chiến lược phát triển quốc gia. Văn hóa không chỉ giới hạn tầm vóc của mình trong chiều sâu những phẩm giá tinh thần mà còn là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển đất nước. Bên cạnh hiệu ích xã hội lớn lao, như: vun đắp một đời sống tinh thần lành mạnh cho cá nhân và cộng đồng, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và hướng con người, xã hội loài người theo các giá trị chân – thiện – mỹ thì văn hóa trong xã hội hiện đại này còn có hiệu ích kinh tế không nhỏ đã mang lại những kỳ vọng vào một hướng phát triển nhanh, bền vững, phát huy tối đa nguồn lực nội sinh chính là văn hóa và con người Việt Nam.

Một số nội dung cần tập trung để phát triển văn hóa

Thứ nhất, coi trọng phát triển cả văn hóa vật thể và phi vật thể.

Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa; hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể; nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại.

Để bảo đảm những giá trị cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc, cần quan tâm phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa đương đại phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, tiến bộ để tiếp tục gia tăng thêm sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam và lan tỏa sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá về văn hóa.

Cần tổ chức tuyên truyền, giới thiệu sâu rộng, thường xuyên, liên tục và có hệ thống bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng các nội dung chủ yếu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về văn hóa trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta và Nhân dân thế giới. Làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu, bền chặt trong đời sống tinh thần của xã hội, trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, từ đó, có thêm nhiều hình thức tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh ở nước ngoài.

Thứ ba, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và ngoại giao văn hóa.

Để phổ biến và lan tỏa hình ảnh đất nước, văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam chúng ta cần phải đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và ngoại giao văn hóa, giúp Nhân dân thế giới hiểu biết, yêu mến, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ Việt Nam phát triển; ủng hộ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; tăng cường mở rộng đầu tư, kinh doanh, du lịch vào Việt Nam… Xu hướng mở rộng liên doanh, hợp tác với các nước trong khu vực và quốc tế để phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam sẽ diễn ra ngày càng sâu rộng hơn bởi sự gia tăng số lượng các ký kết, hiệp định đầu tư, thương mại giữa Việt Nam và quốc tế trong giai đoạn hiện nay cũng như sắp tới. Từ đó, đem lại nhiều cơ hội lớn để phát triển công nghiệp văn hóa có sự kết hợp giữa tính dân tộc và quốc tế.

Thứ tư, gắn kết phát triển văn hóa với phát triển kinh tế.

Để gia tăng sức mạnh mềm văn hóa, phải gắn kết chặt chẽ văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội; gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, phấn đấu đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, giữ gìn tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau. Du lịch, nhất là du lịch văn hóa, chính là cách thức có hiệu quả cao để phát huy sức mạnh mềm văn hóa, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, thu hút du khách quốc tế tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng, đầu tư, kinh doanh, gia tăng nguồn thu nhập cho các địa phương và đất nước.

Thứ năm, phát triển ngành công nghiệp văn hóa.

Phát huy tính năng động, sáng tạo của các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở văn hóa, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Từ đó, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có chất lượng, góp phần tích cực vào việc đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của Nhân dân, làm động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa. Công nghiệp văn hóa cần tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn có tính cạnh tranh cao và năng động, như: du lịch văn hóa, công nghiệp báo chí – xuất bản, công nghiệp điện ảnh – truyền hình, công nghiệp âm nhạc và giải trí công cộng.

Với tình hình hiện nay, phát triển công nghiệp văn hóa không chỉ là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế mà trên thực tế, công nghiệp văn hóa đã được thừa nhận như một ngành sản xuất, như lực lượng sản xuất văn hóa, có khả năng tạo ra các sản phẩm tinh thần tốt đẹp cho xã hội, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế, góp phần bảo đảm cho sự phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

Chú thích:
1. Báo Cứu quốc số 416, ngày 25/11/1946.
2, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 47, 47, 215, 143.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 1996.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Tuyên giáo Trung ương. Hướng dẫn báo chí tuyên truyền Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ngày 13/10/2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI). NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019.
TS. Nguyễn Quang Vinh
Học viện Hành chính Quốc gia