Vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ

(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm và đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực khoa học – công nghệ nói riêng bằng việc xây dựng các mục tiêu, chiến lược phát triển; ban hành các cơ chế, chính sách để hỗ trợ đội ngũ này. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ đã trở thành chìa khóa thành công để phát triển đất nước, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ hiện nay.
Ảnh minh họa (internet)
Đặt vấn đề

Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, vai trò đó được thể hiện ở mức độ can thiệp, điều tiết và chi phối của Nhà nước lên nền kinh tế. Sự phát triển nguồn nhân lực (NNL) khoa học – công nghệ (KHCN) không nằm ngoài xu hướng đó, do vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước để bảo đảm sự phát triển diễn ra đúng mục tiêu và đem lại hiệu quả cao.

Tính tất yếu sự can thiệp của Nhà nước trong phát triển NNL KHCN xuất phát từ những lý do sau: (1) Xuất phát từ sự cần thiết phải phát huy những ưu việt và khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường (KTTT) trong phát triển NNL KHCN nên đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước. (2) Định hướng phát triển KHCN và NNL KHCN cần  bảo đảm mục tiêu phát triển quốc gia nên đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước. (3) Quá trình toàn cầu hóa đã đặt ra yêu cầu phải hội nhập quốc tế về NNL KHCN, nhu cầu rút ngắn khoảng cách về quy mô và trình độ của đội ngũ cán bộ KHCN nước ta so với trình độ chung của khu vực và thế giới, do vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước.

Vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ

Một là, Nhà nước tạo môi trường cho phát triển NNL KHCN.

Việc thiết lập, tạo dựng môi trường là một nội dung quan trọng thể hiện vai trò của Nhà nước trong phát triển NNL KHCN. Điều này có ý nghĩa to lớn bởi môi trường được xem là chất xúc tác để NNL KHCN phát triển. Một môi trường thuận lợi sẽ thúc đẩy NNL KHCN phát triển và ngược lại. Môi trường để phát triển NNL KHCN bao gồm: môi trường kinh tế, pháp luật, giáo dục, kết cấu hạ tầng KHCN, cơ chế, chính sách đãi ngộ và thu hút NNL KHCN… Tất cả những yếu tố đó không hình thành một cách tự phát, mà chủ yếu là do sự kiến tạo của Nhà nước. Nhà nước xây dựng khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững chắc bao gồm cả hệ thống luật lệ, quy định và cả những định chế cần thiết để thực hiện, cưỡng chế, việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao gồm tòa án, các cơ quan cưỡng chế thi hành luật để phát triển NNL KHCN. Bên cạnh đó, Nhà nước tạo hành lang pháp lý để toàn xã hội có điều kiện tham gia vào phát triển NNL KHCN cả về số lượng và chất lượng. Chỉ có như vậy, phát triển NNL KHCN mới đáp ứng tốt nhất nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Hai là, Nhà nước hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL KHCN.

Nhà nước phải căn cứ vào nhu cầu NNL KHCN; đồng thời, căn cứ vào số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL KHCN để đưa ra chiến lược phát triển NNL này. Xây dựng chiến lược phát triển NNL KHCN cần xác định được điểm xuất phát, mục tiêu phát triển của từng giai đoạn và một số giải pháp phù hợp với điều kiện phát triển đất nước.

Nhà nước tiếp tục chỉ đạo công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL KHCN theo hướng vừa bảo đảm chiến lược đề ra, vừa bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật với các văn bản hướng dẫn giữa sự chỉ đạo, điều phối thực thi hiệu quả các mục tiêu phát triển chung của quốc gia.

Ba là, Nhà nước xây dựng và thực thi các chính sách phát triển NNL KHCN.

Để thực hiện những kế hoạch đã đề ra, phát triển NNL KHCN rất cần các chính sách hỗ trợ, như: chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ về vật chất và tinh thần, chính sách thu hút, hợp tác quốc tế NNL KHCN, cử nhân lực đi học tập, nghiên cứu tại nước ngoài…Những chính sách trên có tác động trực tiếp đến NNL KHCN bởi những điều kiện và những cơ hội được tạo ra sẽ là động lực để những người làm việc trong lĩnh vực KHCN phát huy hết khả năng và hiệu quả lao động của mình.

Bốn là, Nhà nước tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm.

Cùng với việc thực hiện chiến lược, cơ chế, chính sách, cần phải song song tiến hành thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chiến lược, cơ chế, chính sách, xử lý vi phạm các hoạt động khác liên quan đến phát triển NNL KHCN; bởi chủ trương đưa ra dù có tốt đến mấy nhưng khi thực hiện trong thực tiễn sẽ không tránh khỏi hạn chế, thiếu sót hoặc vướng mắc cần khắc phục. Do đó, Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá và xử lý các vi phạm, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của chiến lược, cơ chế, chính sách phát triển NNL KHCN.

Nội dung công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm chủ yếu hướng vào việc thực hiện luật pháp, chiến lược, cơ chế chính sách của Nhà nước trong phát triển NNL KHCN nhằm hướng tới mục tiêu là bảo đảm sự phát triển của NNL KHCN theo kế hoạch đã định, kịp thời phát hiện khiếm khuyết, bất cập của chính sách đã ban hành để điều chỉnh kịp thời.

Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ

Thứ nhất, định vị đúng vai trò của Nhà nước trong phát triển NNL KHCN.

Trong nền KTTT, mọi hoạt động đều chịu sự chi phối từ các quy luật của KTTT. Điều này có nghĩa là phát triển NNL KHCN không chỉ xuất phát từ ý chí của Nhà nước, mà còn xuất phát từ yêu cầu của KTTT.

Cũng trong nền KTTT, việc xác lập mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường là đều hết sức cần thiết. Nếu giữa Nhà nước và thị trường có sự phối hợp nhịp nhàng thì các quy định của pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật vừa phù hợp với các quy luật thị trường, vừa phù hợp với chức năng của Nhà nước sẽ thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển và ngược lại. Do vậy, để có sự phối hợp nhịp nhàng, việc hoàn thiện thể chế KTTT phải gắn liền với sự đổi mới và hoàn thiện bộ máy tổ chức nhà nước. Tất cả cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước đều phải hiểu rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng của mình trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; thông qua đó giúp định vị đúng vai trò của Nhà nước, cơ sở để Nhà nước thực hiện vai trò đối với sự phát triển NNL KHCN. Khi định vị được vai trò của Nhà nước sẽ tạo cơ sở để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến tạo sự phát triển của Nhà nước, đặc biệt là năng lực thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thứ hai, nâng cao năng lực, phẩm chất cán bộ và hiệu lực, hiệu quả của bộ máy tổ chức, quản lý NNL KHCN.

Để phát huy vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực KHCN cũng như NNL KHCN cần bồi dưỡng, nâng cao năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý NNL KHCN. Trước hết, phải có cán bộ tốt thì mới có thể thúc đẩy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức quản lý NNL KHCN. Đảm nhận công việc này cần có các chuyên gia trong cùng lĩnh vực mới có thể hiểu rõ đặc điểm của NNL KHCN. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý này phải có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp được bố trí công việc phù hợp với trình độ, năng lực, phẩm chất của mình. Điều này đòi hỏi Nhà nước cần có chính sách thu hút, tuyển dụng những người tài vào làm việc trong bộ máy tổ chức, quản lý NNL KHCN.

Xây dựng chính sách phải gắn liền với việc thực thi chính sách. Bên cạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý đủ phẩm chất và năng lực cần có bộ máy tổ chức, quản lý hoạt động có hiệu lực, hiệu quả để hoạch định, thực thi chính sách. Sức mạnh của bộ máy và những con người vận hành bộ máy nhà nước đó sẽ thể hiện sức mạnh và vai trò của Nhà nước trong phát triển NNL KHCN. Do đó, nâng cao năng lực, phẩm chất cán bộ và hiệu lực, hiệu quả của bộ máy tổ chức, quản lý là giải pháp quan trọng hàng đầu để phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển NNL KHCN.

Thứ ba, tạo lập nền tảng kinh tế – xã hội cho phát triển NNL KHCN.

Trong bối cảnh hiện nay, CMCN 4.0 tác động mạnh mẽ đến sản xuất, thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Cụ thể, các thành tựu mới của KHCN được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản trị… tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng trưởng của các ngành, nghề theo cấp số nhân, làm thay đổi diện mạo đời sống kinh tế – xã hội, trong đó có NNL KHCN.

Như vậy, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, từ tăng trưởng chiều rộng sang tăng trưởng chiều sâu; tiến hành chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với CMCN 4.0 nâng cao chất lượng, năng suất lao động, tăng trưởng, cũng như sức cạnh tranh của nền kinh tế. Điều này tạo ra điều kiện thuận lợi để phát triển NNL KHCN cả về số lượng, chất lượng và quy mô. Bên cạnh đó, việc đầu tư, quan tâm cho giáo dục cũng là một trong những giải pháp để phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển NNL KHCN. Nhận thức về vai trò của giáo dục, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu và  đặc biệt nhấn mạnh phát triển NNL, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế1. Trong đó, Nhà nước cần tập trung vào một số vấn đề sau:

(1) Phân cấp hệ thống giáo dục một cách khoa học để thấy rõ vai trò của Nhà nước đối với mỗi cấp giáo dục là khác nhau; từ đó, mức độ can thiệp của Nhà nước và chính sách của Nhà nước đối với mỗi cấp bậc giáo dục và đào tạo (GDĐT) là khác nhau. Cần phải phân biệt hai bậc của hệ thống giáo dục quốc gia là giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp; phân biệt rõ 2 nhánh của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo nghề và giáo dục đại học.

(2) Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp với từng bậc giáo dục. Do tính chất của từng bậc giáo dục là khác nhau nên sự tác động và mức độ chi phối của Nhà nước đối với từng bậc giáo dục cũng khác nhau. Trong đó, giáo dục phổ thông là bậc học bắt buộc, yêu cầu phải đạt đến sự phổ cập nên đòi hỏi Nhà nước phải bao cấp toàn bộ từ việc chi phí xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường, sách giáo khoa, lương giáo viên;  đồng thời, quyết định hệ thống các tiêu chí đánh giá của nhà trường. Còn đối với bậc giáo dục nghề nghiệp, do có yêu cầu cao hơn, phức tạp hơn nên phải tuân thủ các quy luật thị trường nhiều so với sự can thiệp và chi phối của Nhà nước. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả hoạt động, Nhà nước cần bảo đảm quyền tự chủ thật sự của các cơ sở GDĐT nghề nghiệp trên mọi phương diện.

(3) Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm mục đích giúp cho các cơ sở GDĐT hoạt động đúng sứ mệnh, tôn chỉ, mục đích đã đề ra, bảo đảm chất lượng và hạn chế những sai sót, kịp thời xử lý những vi phạm…, đặc biệt là cơ sở GDĐT nghề nghiệp được giao quyền tự chủ. Cần xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng và thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục đối với các cơ sở GDĐT.

(4)  Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về GDĐT để có thể tiếp nhận các nguồn lực, trao đổi và học tập kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới để tiến hành đổi mới GDĐT. Đây là con đường tất yếu dẫn đến nền GDĐT nước ta theo kịp các nước.

Thứ tư, nhanh chóng khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò của Nhà nước đối với phát triển NNL KHCN.

(1) Hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển NNL KHCN.

Hệ thống pháp lý để phát triển NNL KHCN có vai trò quan trọng; bởi đây là cơ sở để NNL KHCN thực hiện quyền tự do lao động, sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Mặc dù, Nhà nước đã nỗ lực sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện  hành lang pháp lý cho phát triển NNL KHCN nhưng kết quả vẫn chưa thật sự đồng bộ và nhất quán. Do đó, để hoàn thiện hệ thống pháp lý và tháo gỡ những rào cản, vướng mắc cho NNL KHCN, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý để tất cả chủ thể xã hội có thể tham gia phát triển NNL KHCN. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tổng ngân sách nhà nước chi cho KHCN là 2%2; trong khi đó, tiềm lực của cộng đồng doanh nghiệp là rất lớn. Do đó, để huy động mọi nguồn lực vào phát triển NNL KHCN, Nhà nước phải tạo cơ hội bình đẳng, môi trường thuận lợi, thông thoáng… để tất cả các các thành phần kinh tế, doanh nghiệp, tổ chức cùng tham gia. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng hành lang pháp lý, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đưa ra chính sách giảm trừ thuế… nhằm khuyến khích sự tham gia từ của người dân, doanh nghiệp.

(2) Hoàn thiện chiến lược, quy hoạch phát triển NNL KHCN.

Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn NNL KHCN do Nhà nước đưa ra phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, chiến lược an ninh quốc gia và các chiến lược cơ bản khác của quốc gia. Trong đó, chú trọng công tác phân tích và đánh giá dự báo phát triển NNL KHCN. Công tác dự báo xu thế phát triển NNL KHCN có vai trò quan trọng, bởi đây là căn cứ quan trọng để tiến hành xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải nắm bắt các tin tức, sự kiện liên quan đang diễn ra; đồng thời, dự đoán chính xác những diễn biến có thể xảy ra trong tương lai.

Xây dựng kế hoạch phát triển NNL KHCN dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Đây là những nấc thang trong thực hiện quy hoạch, chiến lược đã đề ra. Xây dựng kế hoạch dài hạn và trung hạn cần nắm vững mối quan hệ giữa nhu cầu phát triển với khả năng của các nguồn lực.

(3) Hoàn thiện các chính sách phát triển NNL KHCN.

Việc hoàn thiện chính sách sử dụng NNL KHCN gồm những nội dung chủ yếu sau: (1) Xây dựng và thực hiện chiến lược trọng dụng NNL KHCN, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao. (2) Thực hiện chính sách tuyển dụng, bố trí sử dụng NNL KHCN một cách hợp lý. (3) Cải cách chế độ tiền lương và thưởng, tạo động lực mạnh mẽ và trực tiếp cho NNL KHCN.

(4) Hoàn thiện hệ thống thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm.

Nhà nước cần tập trung: (1) Tạo lập khung pháp lý để thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong phát triển NNL KHCN. (2) Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý GDĐT làm căn cứ để tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm; (3) Đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm; (4) Chú trọng công tác giám sát chất lượng của các cơ sở GDĐT và sử dụng NNL KHCN.

Kết luận

Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang đặt ra yêu cầu cấp thiết về phát triển NNL KHCN. Phát triển thành công NNL chất lượng cao trong lĩnh vực KHCN có ý nghĩa quyết định việc tăng lợi thế cạnh tranh của quốc gia và tận dụng những cơ hội mà CMCN 4.0 mang lại. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới và thực tiễn Việt Nam  khẳng định, để phát triển NNL KHCN, tất yếu phải có sự can thiệp của Nhà nước; sự can thiệp của Nhà nước càng tích cực, đầy đủ, khoa học… thì NNL KHCN ngày càng phát triển mạnh mẽ về số lượng và nâng cao về chất lượng. Trong điều kiện KTTT, cần phải phát huy vai trò của Nhà nước và kết hợp sức mạnh của Nhà nước với sức mạnh của cơ chế thị trường đã trở thành động lực thúc đẩy NNL KHCN Việt Nam phát triển.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 136.
2. Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ để đưa đất nước “bứt phá”. https://dangcongsan.vn, ngày 13/4/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Văn Dân. Diện mạo và triển vọng của xã hội tri thức. H. NXB Chính trị quốc gia, 2015.
2. Lê Đăng Doanh. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học – công nghệ ở Việt Nam. H. NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2013.
3. Nguyễn Duy Dũng. Đào tạo và quản lý nguồn nhân lực – kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc và những gợi ý cho Việt Nam. H. NXB Từ điển Bách khoa, 2008.
4. Nguyễn Hữu Dũng. Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam. H. NXB Lao động xã hội, 2003.
5. Phạm Văn Dũng. Phát triển thị trường khoa học – công nghệ ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia, 2010.
6. Phạm Đắc. Nghiên cứu con người Việt Nam công nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng tới nền kinh tế tri thức. H. NXB Chính trị quốc gia, 2016.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
8. Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013.
TS. Nguyễn Thị Quyết
Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh