Đổi mới, hoàn thiện chính sách cán bộ – động lực xây dựng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn chất lượng cao trong Quân đội nhân dân hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn chất lượng cao trong quân đội, bảo đảm cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là tất yếu khách quan, là nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng và thiết thực hiện nay. Bài viết tập trung phân tích các biện pháp cơ bản để thực hiện, bao gồm: hoàn thiện chính sách quy hoạch, tuyển chọn tạo nguồn; thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng; nghiên cứu ban hành chính sách đãi ngộ đặc thù đối với nhân lực khoa học xã hội và nhân văn chất lượng cao.
Ảnh minh họa (internet)

Những năm qua, trên cơ sở nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có nguồn nhân lực cán bộ khoa học, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp đã thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn (KHXH-NV) chất lượng cao trong quân đội, bảo đảm cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Qua đó, góp phần quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục – đào tạo, nghiên cứu, phát triển KHXH-NV quân sự, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị và đấu tranh khắc phục nhận thức lệch lạc, chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Một trong những nguyên nhân mang lại kết quả tích cực nói trên là do công tác chính sách đối với đội ngũ cán bộ KHXH-NV trong quân đội được triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đúng, đủ các tiêu chuẩn chế độ, chính sách hiện hành, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, điều dưỡng,… Thực hiện linh hoạt nhiều nội dung, hình thức, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD); kết hợp giữa đào tạo và rèn luyện trong thực tiễn, đào tạo gắn liền với sử dụng nguồn nhân lực.

Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, chính sách cán bộ đối với đội ngũ này còn bộc lộ những bất cập:

Một là, việc xây dựng nguồn cán bộ KHXH-NV chất lượng cao vẫn chưa có quy hoạch mang tính tổng thể. Mặc dù Quân ủy Trung ương đã triển khai xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là Nghị quyết số 109-NQ/QUTW ngày 11/02/2019 về “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”; Kế hoạch số 405-KH/QUTW ngày 23/4/2019 của Quân ủy Trung ương và Đề án số 5053/BQP-TM ngày 09/5/2017 của Bộ Quốc phòng về “Điều chỉnh tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2016 – 2021 và những năm tiếp theo”… Nhưng trên thực tế, vẫn còn một số cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng các cấp trong quân đội nhận thức chưa thật đầy đủ, sâu sắc; chưa coi trọng đúng mức vấn đề quy hoạch tổng thể về tạo nguồn, xây dựng đội ngũ cán bộ KHXH-NV chất lượng cao. Một số học viện, trường sĩ quan và viện nghiên cứu đôi khi còn thiếu tính chủ động, tính kế hoạch và tính dự báo; thậm chí còn hiện tượng hẫng hụt về nguồn lực kế cận, kế tiếp. Số cán bộ KHXH-NV đầu ngành, có học hàm, học vị còn mỏng. Công tác tạo nguồn, tuyển chọn nguồn đào tạo ở một số loại hình, bậc học thấp.

Hai là, chính sách ĐTBD, quản lý, sử dụng nguồn nhân lực KHXH-NV quân sự chất lượng cao đôi khi chưa được thực hiện triệt để, đồng bộ và hiệu quả. Chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo tại trường với bồi dưỡng, tập huấn tại chức và đi thực tế giữ chức vụ lãnh đạo, chỉ huy ở đơn vị; giữa ĐTBD với phát huy vai trò tự ĐTBD và rèn luyện của cán bộ KHXH-NV. Do những lý do khác nhau, nhất là những hạn chế về trình độ ngoại ngữ, cho nên việc cử lực lượng này ra nước ngoài học tập, ĐTBD chưa đạt mục tiêu đề ra.

Công tác ĐTBD nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ KHXH-NV ở các nhà trường quân đội có mặt chưa tạo được sự đột phá; chương trình đào tạo còn trùng lặp, dàn trải. Những năm gần đây, việc quy hoạch, cử cán bộ đi học sau đại học để nâng cao trình độ chuyên môn, xét chức danh chuyên môn kỹ thuật hay xét đạt chuẩn và bổ nhiệm chức danh phó giáo sư, giáo sư để tạo nguồn chuyên gia sâu về KHXH-NV trong quân đội đều gặp khó khăn. Đáng chú ý, việc kết hợp giữa ĐTBD với việc quản lý, bố trí và sử dụng nhân lực KHXH-NV chất lượng cao ở một số học viện, nhà trường còn chưa thật hợp lý và hiệu quả. Chưa mạnh dạn bổ nhiệm cán bộ khoa học trẻ, còn biểu hiện lứa lớp, tuần tự.

Ba là, chính sách đãi ngộ đặc thù đối với nhân lực KHXH-NV chất lượng cao chưa thật tương xứng. Một số chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục còn bất cập1; chưa tạo ra sự đột phá để khuyến khích, động viên khả năng, khơi dậy tiềm năng và những cống hiến, đóng góp của đội ngũ cán bộ KHXH-NV chất lượng cao trong quân đội. Chính sách thu hút, đãi ngộ, giữ gìn, trọng dụng, khuyến khích tài năng, có trình độ chuyên môn cao vào phục vụ quân đội chưa được quan tâm đúng mức.

Hiện nay, trước đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, “xây dựng Quân đội nhân dân,… cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”2; các thế lực thù địch, phần tử phản động ráo riết đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngày càng quyết liệt hơn,… Điều đó càng đặt ra yêu cầu cấp thiết về xây dựng nguồn nhân lực KHXH-NV chất lượng cao trong quân đội, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu, đề xuất, tư vấn, cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, chiến lược quốc phòng, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; “tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự,… trong tình hình mới”3; nghiên cứu, dự báo, giải đáp các vấn đề lý luận – thực tiễn hoạt động quân sự đặt ra; bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm chính trị, quân sự nhân văn của Đảng trong quân đội; góp phần thiết thực xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, phải có những định hướng, chủ trương, chiến lược mang tính tổng thể và lâu dài, cùng với hệ thống các giải pháp mang tính đồng bộ, khoa học và khả thi. Theo đó, việc đổi mới, hoàn thiện chính sách xã hội nói chung, chính sách cán bộ nói riêng cần một số giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện chính sách quy hoạch, tuyển chọn tạo nguồn bổ sung, phát triển nguồn nhân lực KHXH-NV chất lượng cao. Cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng các cấp cần thường xuyên rà soát, đánh giá, phân hướng sử dụng cán bộ KHXH-NV quân sự chất lượng cao và xây dựng, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch nguồn bảo đảm sự liên thông, kế thừa và phát triển; bảo đảm đủ về số lượng, cao về chất lượng và cơ cấu hợp lý, đồng bộ. Phải thể hiện tính tích cực, chủ động và tính kế hoạch cao; phải dự báo, đi trước và đón đầu để bảo đảm hình thành lực lượng kế cận, kế tiếp khoa học, vững chắc, tránh hẫng hụt. Cần có sự thống nhất về mặt nhận thức và chuyển biến mạnh mẽ về mặt hành động, trên cơ sở quan điểm đúng đắn và phương pháp khoa học; cần có tư duy mới về việc gắn quy hoạch, tạo nguồn đội ngũ cán bộ KHXH-NV quân sự chất lượng cao với xây dựng tổng thể đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp và đội ngũ cán bộ chất lượng cao của các ngành khoa học khác trong toàn quân, nhất là ở các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu. Cần đặc biệt chú trọng đến quy hoạch, tạo nguồn cán bộ KHXH-NV quân sự đầu ngành kết hợp với tích cực, chủ động phát hiện, tuyển chọn nguồn cán bộ KHXH-NV quân sự trẻ có tài năng để bổ sung quy hoạch, tiếp tục bồi dưỡng, tạo nguồn.

Đối với công tác thu hút nguồn nhân lực KHXH-NV chất lượng cao vào phục vụ tại ngũ cần thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ có chất lượng, hiệu quả Nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 05/12/2017 của Chính phủ về chính sách thu hút tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; Thông tư số 308/2017/TT/BQP ngày 27/12/2017 của Bộ Quốc phòng quy định về tuyển dụng vào đội ngũ cán bộ, đào tạo sĩ quan dự bị gọi vào phục vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Quan tâm làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến công khai đến đối tượng tuyển chọn, tuyển dụng nhằm thu hút, tạo nguồn nhân lực KHXH-NV chất lượng cao vào phục vụ quân đội lâu dài. Ưu tiên tuyển dụng, tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và giỏi của các chuyên ngành đào tạo phù hợp với các ngành, nghề quân đội chưa đào tạo hoặc đào tạo nhưng chưa đủ so với nhu cầu sử dụng.

Thứ hai, thực hiện tốt chính sách ĐTBD, quản lý, sử dụng nguồn nhân lực KHXH-NV quân sự chất lượng cao. Đẩy mạnh công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ KHXH-NV quân sự chất lượng cao đáp ứng cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng; tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo ở các học viện, nhà trường quân đội bảo đảm học viên tốt nghiệp ra trường đáp ứng được nhiệm vụ. Trong quá trình ĐTBD cần thực hành triệt để phương châm “thực học”, “thực tài”, chú trọng việc lựa chọn và quản lý tốt chất lượng “đầu vào và đầu ra”. Trong đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo tại trường với bồi dưỡng, tập huấn tại chức và đi thực tế giữ chức vụ lãnh đạo, chỉ huy ở đơn vị, tham dự các lớp tập huấn trong và ngoài quân đội gắn với việc phát huy vai trò tự ĐTBD và rèn luyện của mỗi cán bộ KHXH-NV.

Đặc biệt, cần có sự đột phá trong đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo đại học và sau đại học các môn KHXH-NV ở các học viện, nhà trường quân đội theo hướng hiện đại, thiết thực và phù hợp, “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…”4. Song song với việc trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng…, cần coi trọng đúng mức việc ĐTBD những kỹ năng nghiên cứu khoa học hiện đại, phù hợp với các chuyên ngành KHXH-NV, như: năng lực tư duy lý luận, tư duy phản biện khoa học; khả năng khái quát và tổng hợp cao; trình độ ngoại ngữ và công nghệ thông tin; kỹ năng phát hiện, phân tích, nhận định, dự báo, xử lý thông tin về những tình huống, vấn đề nảy sinh trong bối cảnh mới và sự tác động của nó đối với quốc phòng – an ninh, xây dựng quân đội, phát triển đất nước.

Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tăng cường liên kết về đào tạo, nghiên cứu KHXH-NV giữa các trung tâm, viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài quân đội. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm ở bên ngoài tham gia vào quá trình đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Tăng cường gửi cán bộ KHXH-NV ra các cơ sở giáo dục đại học bên ngoài quân đội hoặc ra nước ngoài học tập, ĐTBD.

Thứ tư, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy chế, quy định về quản lý, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong quân đội nói chung, nguồn nhân lực KHXH-NV chất lượng cao nói riêng phù hợp với thực tiễn. Phải xác định nội dung, phương thức quản lý thật sự khoa học, phù hợp và hiệu quả cao. Quản lý của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đối với nguồn nhân lực KHXH-NV đi đôi với việc bảo đảm toàn diện, nắm chắc số lượng, thành phần, cơ cấu, trình độ học vấn, kế hoạch ĐTBD, phân hướng sử dụng trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm phân công.

Thứ năm, kết hợp chặt chẽ giữa công tác ĐTBD với việc sử dụng phù hợp, hiệu quả nhân lực KHXH-NV chất lượng cao ở các học viện, nhà trường, đơn vị; bố trí công việc đúng chuyên môn để họ phát huy tối đa năng lực, sở trường được đào tạo, trọng tâm là hướng vào khơi dậy, phát huy tối đa tài năng, sức sáng tạo. Điều đó đòi hỏi cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp, các cơ quan, đơn vị cần mạnh dạn giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ KHXH-NV, nhất là đối với cán bộ khoa học trẻ có triển vọng. Thực hiện chính sách sử dụng cán bộ một cách nhất quán “vì việc mà đặt người”, khách quan, công tâm, công bằng, có lý, có tình. Kết hợp hài hòa giữa bổ nhiệm tuần tự với bổ nhiệm vượt chức đối với cán bộ có trình độ, năng lực nổi trội, luân chuyển giữa cơ quan, nhà trường và đơn vị để tạo nguồn cán bộ KHXH-NV trẻ.

Thứ sáu, nghiên cứu ban hành chính sách đãi ngộ đặc thù đối với nhân lực KHXH-NV chất lượng cao. Giảng dạy, nghiên cứu KHXH-NV có tính đặc thù so với các khoa học khác; cán bộ KHXH-NV vốn phải có sự rèn luyện, trải nghiệm qua thực tiễn nghiên cứu và cuộc sống mới có kinh nghiệm, khả năng tổng kết, phân tích, chắt lọc, khái quát trong nghiên cứu, mới tạo ra các sản phẩm có chất lượng, có giá trị trong khi đó, quân đội lại là môi trường lao động đặc biệt. Vì vậy, để xây dựng nguồn nhân lực KHXH-NV chất lượng cao trong quân đội, các cơ quan chức năng cần tích cực nghiên cứu, chủ động tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ban hành các chính sách đãi ngộ tương xứng, thỏa đáng đối với lao động đặc thù của đội ngũ đặc thù này.

Theo đó, cần coi trọng hàng đầu việc tạo lập các hành lang pháp lý thuận lợi, ban hành các chính sách về tiền lương, phụ cấp, quân hàm đối với cán bộ KHXH-NV; mạnh dạn cho cán bộ khoa học trẻ tham gia và làm chủ nhiệm đề tài khoa học các cấp (từ cơ sở đến cấp bộ, cấp Nhà nước), được tham gia nghiên cứu, khảo sát thực tế ở trong và ngoài nước; cùng với đó là thực hiện tốt chính sách nhà ở và chính sách hậu phương quân đội; chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần để họ yên tâm công tác và cống hiến. Mặt khác, cần có chính sách quan tâm hỗ trợ kinh phí, thực hiện chi trả phụ cấp đứng lớp, phụ cấp chuyên môn; tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ KHXH-NV công bố và xã hội hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học (như in ấn, xuất bản giáo trình, tài liệu dạy học, sách, báo, tạp chí, hội thảo khoa học, dịch và đăng bài báo quốc tế…); tích lũy các điều kiện cần và đủ để đạt chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư; giảng viên, nghiên cứu viên chính và cao cấp, Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú.

Cần làm tốt công tác sàng lọc, kiên quyết luân chuyển và thay thế cán bộ KHXH-NV yếu về năng lực, uy tín thấp công tác tại các viện nghiên cứu, các cơ quan chiến lược, học viện, trường sĩ quan. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, tích cực đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện giản đơn, phiến diện trong nhận thức và thiếu trách nhiệm trong xây dựng nguồn nhân lực KHXH-NV quân sự chất lượng cao trong quân đội cũng như chính sách cán bộ đối với đội ngũ này.

Chú thích:
1. Báo cáo số 3927/BC-BQP ngày 19/10/2020 của Bộ Quốc phòng về Tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong Quân đội giai đoạn 2011 – 2020.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 157 – 158, 159.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 114  – 115.
Nguyễn Đình Ồ
Học viện Chính trị – Bộ Quốc phòng