Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại hành chính trong bối cảnh hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Hoạt động quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại hành chính đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân, chống quan liêu, tham nhũng, ổn định tình hình chính trị – xã hội; đồng thời là biện pháp bảo đảm pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính được thực thi thống nhất, hiệu quả. Tuy nhiên, trong bối cảnh cải cách nền hành chính nhà nước, hoàn thiện nhà nước pháp quyền và tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, hoạt động này vẫn còn nhiều hạn chế. Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại hành chính, trước tiên cần phải nhận diện, phân tích, làm rõ các yếu tố tác động ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động này.
Ảnh minh họa (internet)
Khái quát quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại hành chính trong bối cảnh hiện nay

Quản lý nhà nước (QLNN) về giải quyết khiếu nại hành chính (KNHC) là những hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và kiểm soát việc thực hiện pháp luật giải quyết KNHC của các chủ thể có thẩm quyền trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước tiến hành, tác động đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết KNHC nhằm bảo đảm pháp luật về giải quyết KNHC được thực thi thống nhất, hiệu quả. QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và được xem là một chức năng thiết yếu của Nhà nước để quản lý xã hội. QLNN về giải quyết KNHC hiệu quả góp phần phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là biện pháp góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân; đồng thời là phương thức góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện cơ chế QLNN; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, ổn định tình hình chính trị – xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Thực tiễn những năm qua, hoạt động QLNN về giải quyết KNHC đã được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật, như: Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố tụng hành chính… và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cùng với việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước ta còn thiết lập và kiện toàn các cơ quan có chức năng QLNN về giải quyết KNHC; các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong việc QLNN về KNHC. Đây chính là những cơ sở pháp lý cần thiết để nâng cao hiệu quả QLNN, đồng thời để công dân thực hiện tốt quyền làm chủ và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Tuy nhiên, trong bối cảnh cải cách nền hành chính nhà nước, hoàn thiện nhà nước pháp quyền và tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn QLNN về giải quyết KNHC ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Cụ thể là: nhận thức chung về QLNN trong công tác giải quyết KNHC chưa được đề cao; pháp luật QLNN về giải quyết KNHC còn có những chồng chéo, mâu thuẫn, chưa đáp ứng được yêu cầu đang đặt ra; công tác chỉ đạo, tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết khiếu nại còn chưa hiệu quả; công tác xây dựng lực lượng, tập huấn nghiệp vụ, tổng hợp thông tin báo cáo, tổng kết kinh nghiệm về giải quyết KNHC còn hình thức; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật trong việc chấp hành pháp luật về giải quyết KNHC vẫn chưa nghiêm…

Những yếu tố tác động ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại hành chính và một số đề xuất

Thứ nhất, nhận thức của các chủ thể có thẩm quyền QLNN về giải quyết KNHC.

Nhận thức của lãnh đạo cơ quan, tổ chức có thẩm quyền QLNN về giải quyết KNHC; nhận thức của cán bộ, công chức (CBCC) và các cá nhân có liên quan có tác động rất lớn đến hiệu quả QLNN về giải quyết KNHC. Khi nhận thức được đầy đủ vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của QLNN về giải quyết KNHC thì các chủ thể có thẩm quyền sẽ chủ động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và lựa chọn phương thức phù hợp để thực hiện nội dung QLNN về giải quyết KNHC như: chủ động tham mưu nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp luật để Nhà nước ban hành, đồng thời chủ động xây dựng ban hành các văn bản quản lý theo thẩm quyền để tạo ra hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ; hạn chế và hướng tới loại trừ tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong các quy phạm pháp luật về giải quyết KNHC gây khó khăn cho tổ chức, hoạt động QLNN về lĩnh vực này.

Thực tế đã có nhiều văn bản pháp luật về giải quyết KNHC chưa được xây dựng, sửa đổi, bổ sung kịp thời. Sau khi Luật Khiếu nại năm 2011 ban hành, một số vấn đề quan trọng trong lĩnh vực giải quyết KNHC, điển hình là các quy định về vấn đề đối thoại trong giải quyết KNHC; cử người đại diện trình bày khiếu nại và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp xử lý trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung; ban hành, gửi, công khai quyết định giải quyết khiếu nại và lập, quản lý hồ sơ giải quyết khiếu nại; thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp lý xử lý vi phạm pháp luật; xử lý hành vi vi phạm trong giải quyết KNHC… đến năm 2020 mới được Chính phủ quy định tương đối toàn diện tại Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại; nhiều quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được tuân thủ và tổ chức thực hiện kịp thời, gây tâm lý không tốt, công dân tiếp tục tái khiếu nại, làm cho vụ việc trở nên phức tạp, kéo dài. Chính vì vậy, thủ trưởng cơ quan QLNN phải nhận thức rõ trách nhiệm cá nhân là người đứng đầu cơ quan hành chính có vai trò quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo, quyết định tính hiệu quả của QLNN về giải quyết KNHC; đồng thời, phải nâng cao nhận thức và năng lực cho đội ngũ CBCC trực tiếp giải quyết KNHC.

Thứ hai, hệ thống chính sách, pháp luật về giải quyết KNHC đồng bộ.

Hệ thống chính sách, pháp luật về QLNN nói chung và về giải quyết KNHC nói riêng là yếu tố xác định tính hợp pháp, hợp lý của hoạt động quản lý. Nhà nước với tư cách là chủ thể của quản lý phải xác lập các căn cứ pháp lý, bảo đảm cho hoạt động QLNN về giải quyết KNHC đi vào nề nếp và thực sự có hiệu quả. Các quy định về thẩm quyền, đối tượng, nội dung, nguyên tắc, phương pháp QLNN về giải quyết KNHC phải bảo đảm tính đồng bộ, toàn diện từ xây dựng chiến lược, văn bản quy phạm, văn bản áp dụng hướng dẫn nghiệp vụ, chương trình, kế hoạch cho đến tổ chức triển khai thực hiện và kiểm soát việc thực hiện các công việc cụ thể đó trên thực tế. Sau khi Luật Khiếu nại ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khiếu nại; tiếp đó, Tổng Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 quy định quy trình giải quyết khiếu nại nhưng chỉ sau khi thi hành một thời gian ngắn đã phải sửa đổi, bổ sung bởi có quy định không phù hợp với văn bản của cấp trên hoặc không phù hợp với thực tiễn nên phải sửa đổi bằng Thông tư số 02/2016/TT-TTCP ngày 20/10/2016.

Để bảo đảm QLNN về công tác giải quyết KNHC có hiệu lực, hiệu quả thì chính sách, pháp luật về giải quyết KNHC phải đáp ứng các yêu cầu sau:

–  Cần có chính sách, chiến lược để dự báo tình hình khiếu nại và định hướng xây dựng pháp luật về giải quyết KNHC. Việc đưa ra những dự báo tình hình khiếu nại và định hướng xây dựng pháp luật cũng là cơ sở để các cơ quan cấp dưới xây dựng chính sách, pháp luật về giải quyết KNHC; đồng thời là phương tiện để quản lý hiệu quả hơn công tác này. Định hướng xây dựng pháp luật về giải quyết KNHC phải phù hợp với kế hoạch tổng thể chung về phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong từng giai đoạn nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với pháp luật của các ngành, lĩnh vực khác, phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, với xu thế hội nhập quốc tế.

– Pháp luật QLNN về giải quyết KNHC phải được xây dựng trên cơ sở những quan điểm định hướng, chiến lược của Đảng và Nhà nước và phù hợp với yêu cầu đặt ra từ thực tiễn. Do đặc thù của hoạt động giải quyết KNHC là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp nên số lượng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn nghiệp vụ rất nhiều. Điều đó đặt ra những đòi hỏi yêu cầu rất cao đối với các chủ thể có thẩm quyền QLNN về công tác giải quyết KNHC trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm tính toàn diện, thống nhất, minh bạch và khả thi.

Thứ ba, chất lượng đội ngũ CBCC làm công tác QLNN về giải quyết KNHC.

CBCC làm công tác QLNN về giải quyết KNHC là những chủ thể trực tiếp thực thi quyền QLNN về công tác này phải nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; phải có năng lực lãnh đạo quản lý và phải có kiến thức tổng hợp trên nhiều lĩnh vực; đồng thời, phải có trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm công tác, bản lĩnh chính trị và ý thức trách nhiệm công vụ.

Bên cạnh đó, thực tiễn công tác đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức tập huấn, hội nghị, hội thảo, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn vừa góp phần tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật về QLNN nói chung và lĩnh vực giải quyết KNHC nói riêng vừa tạo điều kiện cho CBCC có điều kiện học hỏi, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn để vận dụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Đồng thời, công tác rà soát, đánh giá lại đội ngũ CBCC được giao thực hiện nhiệm vụ liên quan đến hoạt động giải quyết KNHC hiện nay để lựa chọn, bổ sung, kiện toàn đội ngũ chuyên môn tham mưu, giúp thủ trưởng cơ quan QLNN và cơ quan thanh tra nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ QLNN về công tác giải quyết KNHC điều này tác động rất lớn đến chất lượng đội ngũ CBCC làm công tác QLNN về giải quyết KNHC.

Hiệu quả QLNN về giải quyết KNHC cũng phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ CBCC. Quản lý tốt không thể thiếu được đội ngũ CBCC giỏi về chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ, có năng lực và phẩm chất tốt. Nhận thức được sâu sắc về vấn đề này, thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền cần đưa ra các giải pháp phù hợp để bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ cho CBCC; chú trọng hơn việc đào tạo, bồi dưỡng trước mắt, đồng thời có kế hoạch lâu dài đào tạo những cán bộ có năng lực thực hiện chức năng QLNN về công tác giải quyết KNHC.

Thứ tư, sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến QLNN về giải quyết KNHC.

Hoạt động QLNN về giải quyết KNHC luôn đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ thể có thẩm quyền quản lý với các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có thẩm quyền khác. Đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện, hỗ trợ chuyên môn, nghiệp vụ, nguồn lực tài chính, chế độ cung cấp thông tin, tài liệu… để các cơ quan có thẩm quyền quản lý đưa ra các quyết định quản lý phù hợp. Với các tổ chức, cá nhân khác, sự phối hợp được thể hiện thông qua việc thông tin, giám sát đối với hoạt động quản lý để kịp thời phát hiện những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động quản lý. Khi thiếu sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thì các chủ thể có thẩm quyền QLNN về giải quyết KNHC khó có thể thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Để QLNN về giải quyết KNHC đạt hiệu quả, bên cạnh những chủ thể có thẩm quyền quản lý, như: Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp… còn có sự phối hợp của các thiết chế khác như: vai trò của Đảng  trong việc đề ra đường lối, chủ trương QLNN về giải quyết KNHC và kiểm tra, giám sát thông qua hoạt động của Đảng; của hệ thống cơ quan quyền lực trong việc ban hành chính sách, pháp luật và giám sát hoạt động QLNN về giải quyết KNHC; sự kiểm soát của các cơ quan tư pháp; sự giám sát việc thực hiện pháp luật về giải quyết KNHC của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, của xã hội và của công dân.

Thứ năm, nguồn lực cơ sở vật chất bảo đảm cho QLNN về giải quyết KNHC.

Hoạt động QLNN nói chung và QLNN về công tác giải quyết KNHC nói riêng muốn triển khai được chương trình, kế hoạch đã đặt ra thì phải sử dụng đến nguồn lực vật chất. Có thể chia nguồn lực cơ sở vật chất thành 3 nhóm chính như sau:

– Trụ sở làm việc: cần phải được thiết kế phù hợp với mục đích sử dụng của cơ quan để bảo đảm khai thác tối đa hiệu quả sử dụng và phải được xây dựng phù hợp với định mức, tiêu chuẩn. Đây là điều kiện để hoạt động QLNN nói chung cũng như hoạt động QLNN về công tác giải quyết KNHC nói riêng đạt hiệu quả cao.

– Thiết bị vật chất, khoa học – kỹ thuật: để thực hiện được nhiệm vụ, các chủ thể có thẩm quyền QLNN về giải quyết KNHC cần phải được trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị khoa học – kỹ thuật. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, kỷ nguyên kỹ thuật số phát triển vượt bậc như hiện nay đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền QLNN về giải quyết KNHC phải không ngừng hiện đại hóa trang thiết bị công nghệ phục công tác.

– Tài chính: để triển khai tất cả những nội dung QLNN về giải quyết KNHC như xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và kiểm soát việc thực hiện pháp luật đều cần phải có nguồn tài chính. Nếu nguồn tài chính không bảo đảm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến QLNN về giải quyết KNHC.

Thứ sáu, tổ chức bộ máy, sự ổn định về chính trị và các yếu tố khác.

Tổ chức bộ máy là yếu tố quan trọng tác động đến việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật. Theo đó, hoạt động QLNN về giải quyết KNHC đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền phải quan tâm đến việc xây dựng tổ chức bộ máy. Tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và tổ chức bộ máy của các cơ quan QLNN về công tác giải quyết KNHC nói riêng không được tổ chức hợp lý thì không có cơ sở để xác định được trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền trong quản lý, dẫn đến hoạt động QLNN sẽ chồng chéo hoặc trùng lặp, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý. Thực tiễn cơ cấu hệ thống các cơ quan thanh tra hiện nay phụ thuộc quá lớn vào cơ quan quản lý, chưa thực sự phát huy được vai trò quan trọng trong QLNN về giải quyết KNHC, do đó, cần phải sắp xếp lại trong thời gian tới khi sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra hiện hành.

Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chính trị trước hết là bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu lực quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của Nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền KNHC.

Trong hệ thống chính trị, Nhà nước giữ vị trí trung tâm, sự liên hệ, tác động qua lại đối với tất cả tổ chức khác. Nhà nước có vai trò chủ đạo, đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định trong hệ thống chính trị. Nhà nước quyết định bản chất, đặc trưng, quá trình tồn tại và phát triển của cả hệ thống chính trị. Để Nhà nước thực thi quyền lực nhằm xác lập một trật tự ổn định và phát triển xã hội theo những mục tiêu Nhà nước đặt ra thì cần phải có QLNN. Chính vì vậy, sự ổn định về chính trị hay là sự ổn định của Nhà nước là nền tảng cơ bản để thực hiện các hoạt động khác. Bởi vậy, sự ổn định về chính trị là cơ sở tạo nên sự ổn định trong QLNN nói chung và QLNN về giải quyết KNHC nói riêng.

Hoạt động QLNN nói chung và QLNN về giải quyết KNHC nói riêng còn bị tác động bởi các yếu tố khác như: sự vận động của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước, văn hóa công vụ, ý thức pháp luật của công dân… Đây cũng là những yếu tố quan trọng có tác động đến việc thực hiện các nội dung QLNN về giải quyết KNHC.

Tài liệu tham khảo:
1. Đại học Quốc gia Hà Nội (Khoa Luật). Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật. H. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2003.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Lý luận chung về nhà nước và pháp luật. H. NXB Chính trị quốc gia, 2001.
3. Luật Khiếu nại năm 2011.
4. Mai Trung Sơn và Nguyễn Ngọ. Quản lý nhà nước về công tác thanh tra. H. NXB Chính trị quốc gia, 2004.
5. Thanh tra Chính phủ. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Đề tài độc lập cấp Nhà nước năm 2002, mã số 98-98-048/QĐ.
ThS. Lê Đức Trung
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra