Đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Hệ thống chính trị nước ta nắm giữ toàn bộ hệ thống các quyền lực xã hội trên thực tế, từ quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đến các quyền lực khác trong xã hội, trong đó có các quyền lực về xây dựng, hoàn thiện, tổ chức thực thi, kiểm soát việc thực thi hệ thống thể chế. Do đó, đòi hỏi phải có một tổ chức bộ máy hệ thống chính trị hợp lý, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây cũng là yêu cầu tất yếu khách quan, cấp thiết để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội.
Hệ thống chính trị Việt Nam

Hệ thống chính trị ở nước ta là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội; là hệ thống tổ chức bộ máy (các thiết chế) cùng hoạt động trong đời sống chính trị với những chức năng, nhiệm vụ khác nhau, do đó, cũng có những thẩm quyền, trách nhiệm khác nhau. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo, có địa vị cầm quyền; Nhà nước làm chức năng quản lý, điều hành, trước hết là ban hành luật, thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng thành luật pháp, chính sách; Mặt trận và các đoàn thể: là liên minh chính trị – xã hội rộng lớn nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, do Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý, cùng tập hợp và vận động quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị (xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa), thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước.

Như vậy, hệ thống chính trị ở Việt Nam, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam với sứ mệnh lãnh đạo quá trình xây dựng thể chế chính trị, là hạt nhân, quyết định; Nhà nước là rường cột của chế độ, của thể chế, quản lý và điều hành; Nhân dân là chủ thể quyền lực, tham gia trực tiếp và phát huy vai trò sáng tạo trong xây dựng thể chế. Xét về mặt quan hệ, thể chế chính trị Việt Nam với những vấn đề cần bổ sung, phát triển nêu trên là thực hiện mối quan hệ giữa các chủ thểĐảng lãnh đạo-Nhà nước quản lý-Nhân dân làm chủ, hướng vào mục tiêu phát triển “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”1.

Trong hơn 35 năm đổi mới, bài học về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh luôn mang tính thời sự, được coi là nguyên tắc cốt tử đối với sự phát triển, tồn vong của Đảng. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm động lực phát triển, đoàn kết toàn Đảng, toàn dân tộc tạo khí thế mới, động lực mới, quyết tâm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Quan điểm, chủ trương đổi mới hệ thống chính trị của Đảng ta

Trong những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tổ chức thực hiện. Tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội từng bước được kiện toàn, sắp xếp; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cương lĩnh năm 2011, xác định: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”2.

Điều 10, Điều lệ Đảng quy định: “Hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước”; “Việc lập tổ chức Đảng ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương”.

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2020 đã diễn đạt phương thức lãnh đạo của Đảng theo một cách cụ thể hơn đó là: “Trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”. Về vấn đề này cần xác định rõ tính chất, phạm vi, mức độ, trách nhiệm của sự lãnh đạo của Đảng và cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo đó thực sự hiệu lực, hiệu quả.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức”; “Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan Đảng và Nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ”; “Tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với tiếp tục phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức; thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị”. “Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới”3.

Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã đề ra mục tiêu tổng quát: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Có thể nói, trên cơ sở thực tiễn, để bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả thì việc sắp xếp, hợp nhất lại một số sở,ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng với nhau là một trong những giải pháp mạnh mẽ. Đây là cơ hội lớn để thực hiện việc tinh giản bộ máy, thu gọn đầu mối, giảm bớt việc chi thường xuyên ngân sách. Bước đầu có thể gặp khó khăn trong việc bố trí, sắp xếp cán bộ dôi dư, song cần phải kiên quyết thực hiện.

Tính đến tháng 9/2019, “cả nước có 588/713 đơn vị hành chính cấp huyện (chiếm 82,47%) chưa đạt tiêu chuẩn về diện tích và dân số; có 9.434/11.162 đơn vị hành chính cấp xã (chiếm 84,51%) chưa đạt tiêu chuẩn về diện tích và dân số theo quy định tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH. Mục tiêu đặt ra đến năm 2021, cơ bản thực hiện việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã chưa đạt 50% của cả 2 tiêu chuẩn về diện tích và dân số theo quy định. Từ năm 2022 đến năm 2030, hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã không đạt tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô dân số theo quy định. Bảo đảm quan điểm chỉ đạo, nguyên tắc, lộ trình sắp xếp; các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện; phân công thực hiện…”4.

Theo đó, vấn đề tổ chức sắp xếp lại hệ thống bộ máy từ Đảng đến Nhà nước và hệ thống đoàn thểtừ trung ương tới địa phương và cơ sở phải được thực hiện cấu trúc lại, bảo đảm thực thi chức năng, nhiệm vụ rõ nhất, đúng nhất, tốt nhất chứ không phải sáp nhập, giải thể một cách cơ học.

Quá trình chia, tách các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã thời gian qua có một số bất cập,như: bộ máy các cơ quan nhà nước ngày càng cồng kềnh, tăng biên chế, tăng chi ngân sách; gây khó khăn trong việc định hướng phát triển kinh tế – xã hội; làm xáo trộn đến đời sống Nhân dân trong việc thay đổi giấy tờ, thủ tục…

Việc tinh giản biên chế theo chủ trương của Đảng thời gian qua đạt kết quả thấp; quy định về số lượng cấp phó mang tính bình quân và bất cập, chất lượng hạn chế; tỷ lệ người phục vụ ở khối văn phòng lớn. Chi thường xuyên tăng và chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi ngân sách nhà nước, hiệu quả chi tiêu công còn thấp, chi đầu tư phát triển ngày càng giảm, nợ công tăng và ở mức cao,…

Kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quản lý nhà nước và thực thi công vụ trên một số lĩnh vực, ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn hạn chế, thủ tục hành chính rườm rà, gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp. Có 57% cán bộ, đảng viên và nhân dân lo lắng, bức xúc về bộ máy nhà nước cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả5.

Một số đề xuất, kiến nghị đổi mới, phát triển hệ thống chính trị

Thứ nhấtvề tư tưởng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước được xây dựng trên nền tảng lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những điều kiện thực tế hiện nay của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là những vấn đề căn cốt của đổi mới chính trị, liên quan sống còn đến chế độ chính trị, phải trên cơ sở kiên định những vấn đề nguyên tắc mà vận dụng và đổi mới sáng tạo. Kiên định nguyên tắc, lập trường tư tưởng phải đi đôi với đấu tranh chống bảo thủ, trì trệ; đổi mới sáng tạo phải gắn liền với chống cơ hội chính trị.

Đảng với tư cách là người lãnh đạo đất nước và dân tộc, phải tự đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, nâng cao hơn nữa tố chất trí tuệ, đạo đức, văn minh (như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói); đặc biệt là tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy và đổi mới phương thức lãnh đạo – cầm quyền, thực hành dân chủ trong Đảng. Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền – nhà nước kiến tạo phát triển “kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”. Bằng kết quả và hiệu quả lãnh đạo, quản lý phát triển đất nước để khẳng định trong lòng Nhân dân những giá trị cao cả của đảng cầm quyền và Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó là nền móng vững chắc của sự phát triển bền vững.

Thứ hai, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển, giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nội dung cốt yếu của đổi mới chính trị, liên quan trực tiếp đến giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tác động đến mọi mặt đời sống, quyết định tiền đồ sự nghiệp cách mạng. Bởi vậy, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải được tiến hành bài bản, thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, nhưng khi đã có căn cứ vững chắc, cần có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt.

Trong điều kiện phát triển mới, mang tính đột phá của cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra ngày càng nhanh hơn trên thế giới, chứa đựng những cơ hội lớn cùng với nhiều thách thức và rủi ro không nhỏ. Cả đổi mới, ổn định và phát triển đều đòi hỏi phải hướng tới bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển; đồng thời, hợp thành chiến lược thích ứng năng động, nhằm tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chếtối đa các tác động tiêu cực6.

Thứ ba, kết hợp giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. “Xây” là công việc thường xuyên, cơ bản, lâu dài, xuất phát từ nhu cầu không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền, Nhà nước thật sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. “Chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, bởi trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phải có giải pháp đủ mạnh, kiên quyết để ngăn chặn, đẩy lùi, tạo môi trường cho phát triển bền vững. Dù “xây” hay “chống” đều phải tiến hành thận trọng, bài bản, chắc chắc, không được để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, gây mất ổn định chính trị.

Thứ tư, đi đôi với giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phải tôn trọng, phát huy đầy đủ tính tích cực của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định bảo đảm thành công của xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đảng là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị, nhưng không bao biện, làm thay, mà phải coi trọng phát huy vai trò chủ động, tích cực trong quản lý, điều hành của Nhà nước và giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội.

Thứ năm, huy động, lôi cuốn, phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân.

Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị không phải là việc riêng của cán bộ, đảng viên, mà phải huy động, lôi cuốn Nhân dân tham gia bằng những cơ chế, mô hình phù hợp, từ đóng góp trí tuệ đến nguồn lực, từ tham gia quản lý nhà nước đến kiểm tra, giám sát. Có nhiều kênh phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, trong đó cần đặc biệt coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Vai trò lãnh đạo và uy tín của Đảng trước Nhân dân đang ngày được củng cố, tạo cơ sở, tiền đề cho đẩy mạnh xây dựng Đảng thời gian tới. Nhưng tình hình thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Đại dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp trên phạm vi toàn cầu; diễn biến trên Biển Đông ngày càng phức tạp; cạnh tranh giữa các nước lớn tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương; xung đột thương mại; âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và nhiều thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng nổi lên gay gắt. Chất lượng thể chế, chính sách, nguồn nhân lực vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu của thực tiễn. Các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, “lợi ích nhóm”, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên… luôn là những thách thức đối với công cuộc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Một số lưu ý trong quá trình đổi mới, phát triển hệ thống chính trị

Thời gian qua, việc sắp xếp, giảm đầu mối ở một số địa phương mới dừng lại ở việc thí điểm và cũng đang đặt ra không ít những câu hỏi về tính hợp lý trong tổ chức thực hiện công việc khi mỗi địa phương có những cách làm khác nhau, mô hình khác nhau và chưa đủ thời gian để đánh giá về tính hợp lý của mỗi mô hình.

Chính vì vậy, bộ máy cần được tổ chức hợp lý về cơ cấu với sự đồng bộ từ trung ương đến địa phương, đây là yếu tố quan trọng, là năng lực của nền hành chính nhà nước. Nền hành chính nhà nước cần khả năng thực hiện có hiệu quả chính sách, pháp luật, có khả năng sáng kiến lập pháp, lập quy, khả năng khái quát những mô hình phát triển. Chúng ta cần sớm tạo lập cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn mới thực sự ổn định, tránh những sự xáo trộn không cần thiết.

Đảng không thiên về bộ máy mà chú trọng chất lượng chuyên gia để có thể tham mưu, tư vấn chiến lược, dự báo tình hình tốt nhất. Nhà nước giảm thiểu tầng nấc hành chính quan liêu, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Phải tổ chức chính quyền Nhà nước thực sự là hệ thống công quyền và đáp ứng nhu cầu dịch vụ công cho xã hội, người dân và doanh nghiệp. Xây dựng bộ máy nhà nước đủ năng lực quản lý điều hành, quản trị và tăng cường chức năng xã hội của nhà nước. Quản lý nhà nước bằng luật và theo luật. Không can thiệp quá sâu vào quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Phân định rõ các cấp quản lý để trao nhiều hơn quyền tự chủ cho các cấp, ngành và chính quyền địa phương. Phân biệt rõ quản lý đô thị và quản lý nông thôn7.

Các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc và trong hệ thống chính trị cùng với đội ngũ cán bộ tương ứng phải sắp xếp lại sao cho phản ánh đúng thực chất là làm công tác xã hội, dân vận, không phải và không thể như những “phiên bản” Nhà nước (nhà nước hóa, hành chính hóa), không phải là công chức mà là những người hoạt động xã hội. Phải hình thành những quy tắc, những chế độ, kể cả việc trả lương để không công chức hóa tất cả đội ngũ kiểu nhà nước như hiện nay.

Phân biệt rõ cán bộ Đảng, đoàn thể với công chức nhà nước. Công chức chỉ là những người hoạt động trong các cơ quan công quyền, phải chuyên nghiệp và có chuyên môn cao.

Trong cải cách chế độ và chính sách phải giải quyết căn bản chính sách lương cho cán bộ, công chức, viên chức, tạo động lực cho họ làm việc tận tụy, trách nhiệm, sáng tạo, nâng cao ý thức phản biện, giám sát, kiểm soát quyền lực thực chất chứ không hình thức. Tổ chức bộ máy và đội ngũ nhân lực phải tương xứng, phải trọng dụng người tài, thu hút được nhiều nhân tài về các cơ quan Đảng, Nhà nước. Đề cao chế độ trách nhiệm, đạo đức cán bộ, kỷ luật công vụ, xiết chặt kỷ cương, kỷ luật trong tác nghiệp, trong chuyên môn và trong quan hệ với Nhân dân.

Trong các Nghị quyết về cải cách tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng cán bộ của Đảng cần đặc biệt lưu ý tới tính trong sạch và sức hoạt động của bộ máy, của thể chế, tính liêm khiết, liêm chính của cán bộ, sao cho không tham nhũng, không thể tham nhũng bằng sức mạnh của quản lý và kiểm soát. Bố trí cán bộ đủ đức, đủ tài, đủ năng lực, ngăn chặn tình trạng chạy chức chạy quyền, dùng tiền bạc, vật chất thao túng quyền lực. Sàng lọc nghiêm ngặt cán bộ, công chức, viên chức kỷ luật nghiêm khắc và nghiêm minh, đủ sức cảnh báo, răn đe.

 Chú thích:
1,7. Thể chế chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – những vấn đề cần bổ sung và phát triển trong bối cảnh mới. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 24/7/2020.
2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam. http://tulieuvankien.dangcongsan.vn, ngày 16/4/2018.
4. Hội nghị toàn quốc góp ý dự thảo Đề án tổng thể sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã từ nay đến năm 2021. Moha.gov.vn, ngày 09/8/2019.
5. Ban Chấp hành Trung ương (khoá XII). Đề án Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, ngày 25/7/2017.
6. Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển. hdll.vn, ngày 08/7/2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 26, ngày 19/5/2018 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ.
2. Nghị quyết số 56/2017/QH14, ngày 24/11/2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
3. Ban Chấp hành Trung ương. Đề án “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tháng 9/2017.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1.H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.  
ThS. Vũ Minh Thanh
Trường Chính trị tỉnh Bình Phước