Tăng cường công tác kiểm tra tổ chức đảng góp phần xây dựng đảng vững mạnh toàn diện

(Quanlynhanuoc.vn) – Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra tổ chức đảng là giải pháp căn cốt, đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới. Vai trò của công tác này rất quan trọng, đòi hỏi phải được đi vào thực chất hơn nữa, vừa ngăn ngừa vi phạm, vừa xử lý kịp thời nếu có vi phạm; đồng thời, phát huy tính giáo dục, tính nhân văn, góp phần giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII. Ảnh: TTXVN.

Công tác kiểm tra, giám sát (KTGS) của Đảng có vai trò, vị trí rất quan trọng, là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Nhìn lại quá trình hướng dẫn, quy định thi hành Điều lệ Đảng về công tác KTGS, thi hành kỷ luật của Đảng qua từng nhiệm kỳ, có thể thấy, công tác KTGS, kỷ luật luôn được Đảng ta quan tâm, chú trọng và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo cụ thể, như: Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác KTGS, kỷ luật của Đảng; Quy định số 85-QĐ/TW ngày 23/5/2017 của Bộ Chính trị về KTGS việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Quy định số 07-QĐi/TW ngày 28/8/2018 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm… Đặc biệt, Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) về công tác KTGS và thi hành kỷ luật của Đảng (sau đây gọi tắt là Quy định 22) vừa được ban hành với nhiều điểm mới đột phá, trong đó nhấn mạnh, bổ sung nhiệm vụ kiểm tra của Ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đối với tổ chức đảng, đảng viên “khi có dấu hiệu vi phạm”. Tại điểm 3.2 khoản 3 Điều 8 Quy định 22: “Thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra, thi hành kỷ luật”1 thể hiện rõ sự phát triển về tư duy, tầm nhìn và quyết tâm chính trị của Đảng trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp, công tác KTGS, kỷ luật của Đảng đã có nhiều chuyển biến rõ rệt và đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện, được cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình, ủng hộ; góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, kỷ cương, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển nhanh và bền vững; đồng thời, củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được chỉ đạo tập trung, quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, có nhiều đổi mới, có hiệu lực, hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương; hoạt động của cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp được tăng cường, ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương”2.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 264.091 tổ chức đảng và 1.124.146 đảng viên; UBKT các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 15.920 tổ chức đảng và 47.701 đảng viên (trong đó có 23.432 cấp ủy viên)3.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, công tác KTGS, kỷ luật của Đảng tiếp tục được triển khai thực hiện có hiệu quả, có nhiều vụ việc có dấu hiệu vi phạm đã được UBKT các cấp kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh được dư luận đồng tình, ủng hộ. Có thể thấy, UBKT các cấp đã chủ động thực hiện tốt các nhiệm vụ được quy định trong Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp ủy giao, xác định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ trọng tâm và coi đây là công cụ sắc bén để phòng, chống suy thoái và tư tưởng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Cần phải khẳng định rằng, công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng viên là một công việc vô cùng phức tạp, nhất là ở những nơi mà nguyên tắc tự phê bình và phê bình chưa  cao, ở một số nơi còn thực hiện hình thức, chưa trọng tâm, trọng điểm, do vậy, một số vụ việc chỉ được phát hiện thông qua tố giác của quần chúng và các cơ quan báo chí, phương tiện truyền thông. Bên cạnh đó, một số cấp ủy UBKT còn thụ động, chưa nhanh nhạy trong thực hiện nhiệm vụ, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công việc. Vì vậy, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị và các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.

Bên cạnh những thời cơ thuận lợi, Đảng ta tiếp tục khẳng định công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, Nghị quyết Đại hội XIII chỉ rõ: “Nâng cao khả năng dự báo về những hành vi vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ để đề ra các chủ trương, biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm từ xa, từ sớm”4. Từ đó, đòi hỏi vai trò của UBKT, nhất là công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm kỷ luật phải được nâng cao hơn nữa, nếu dấu hiệu vi phạm được UBKT các cấp phát hiện và ngăn chặn kịp thời sẽ góp phần bảo vệ cán bộ, đảng viên, giữ gìn sự trong sạch của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng, với chế độ.

Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra của UBKT các cấp đối với tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm kỷ luật, cần có một số  giải pháp sau:

Một là, tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp về công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng”5. Theo đó, cần đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền, giáo dục cho các chủ thể của công tác, trước hết là UBKT và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp có nhận thức đúng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Điều lệ Đảng và  hướng dẫn của Trung ương. Từ đó, nêu cao tính chiến đấu trong thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm mục tiêu xuyên suốt của công tác kiểm tra, góp phần xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh.

Hai là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định về kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Đây vừa là giải pháp, vừa là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra: “xây dựng và hoàn thiện quy định, quy chế, quy trình nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng”6. Theo đó, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung, đổi mới phương pháp, kỹ năng, quy trình công tác KTGS, kỷ luật Đảng phù hợp trong tình hình mới.

Quá trình thực hiện các quy chế, quy định hiện hành của Đảng về công tác KTGS tổ chức đảng, UBKT các cấp cần tăng cường nghiên cứu, trao đổi, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để kịp thời bổ sung, phát triển các quan điểm, nguyên tắc, phương pháp về công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Trong đó, cần hết sức chú ý các nội dung, như: cơ chế kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm trong công tác cán bộ, việc thực thi quyền lực của người đứng đầu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; quy định về trách nhiệm và thẩm quyền của UBKT các cấp trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm…

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong nâng cao chất lượng kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Cấp ủy, UBKT các cấp phải coi trọng thực hiện quy chế phối hợp với các tổ chức đảng liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; đồng thời, sử dụng có hiệu quả kết quả thanh tra, điều tra, kiểm toán, giám định của các cơ quan chuyên môn, để kịp thời trao đổi thông tin, hồ sơ, tài liệu, nắm bắt về dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên.

Bốn là, nâng cao chất lượng nội dung, quy trình, hình thức, biện pháp kiểm tra của UBKT đối với tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Điểm 4.6 khoản 4 Điều 8 Quy định 22 vừa được ban hành chỉ rõ: “Ủy ban kiểm tra, kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án do cơ quan chức năng thụ lý”7. Theo đó, UBKT các cấp cần tiến hành thực hiện nhiệm vụ kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung kiểm tra tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tiêu cực, nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, UBKT các cấp cần coi trọng quán triệt, thực hiện nghiêm. Mặt khác, kịp thời phát hiện nhân tố mới, yếu tố tích cực để phát huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung. Trong đó, cần tiếp tục cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về công tác KTGS, kỷ luật, vừa phải phát huy ưu điểm, lấy xây là chính, đồng thời hết sức chú trọng “chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục vi phạm, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải cương quyết xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời để răn đe, giáo dục”8.

Năm là, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố, kiện toàn UBKT các cấp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao phẩm chất, năng lực, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng công tác KTGS, kỷ luật Đảng. Đổi mới nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra theo hướng chuyên nghiệp hóa.

Tăng cường trang bị các phương pháp, kỹ năng nghiệp vụ về công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, cần thường xuyên cập nhật kiến thức mới cho cán bộ kiểm tra, đặc biệt, cần xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, vừa tinh thông về nghiệp vụ, vừa có trách nhiệm cao trong công việc, thực sự công tâm, khách quan, có tinh thần chiến đấu và dũng khí đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, sai trái.

Đổi mới công tác tuyển chọn, quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt, bố trí, luân chuyển, sử dụng, kịp thời khen thưởng, biểu dương nhân rộng gương điển hình tiên tiến… để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra.

Tiếp tục thực hiện công khai kết quả KTGS, xử lý kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng viên trên các phương tiện truyền thông; đồng thời, xử lý kịp thời các vụ việc có dấu hiệu vi phạm kỷ luật. Mặt khác, cấp ủy, UBKT các cấp cần đặc biệt coi trọng việc cụ thể hóa những nguyên tắc, quy định của trung ương và cấp trên thành quy chế, quy định cụ thể ở cấp mình trong thực hiện, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, cơ quan, đơn vị của hệ thống chính trị, góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra tổ chức đảng ngày càng đi vào chiều sâu và thực chất.

Chú thích:
1, 7, 8. Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I.  H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 75 – 76.
3, 4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II.  H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 200, 246 – 247, 245 – 246, 246.
Tài liệu tham khảo:
1. Bài phát biểu của Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Tổng kết công tác kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng diễn ra vào ngày 27/11/2020.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,  2016.
3. Một số điểm mới trong Quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. https://dangcongsan.vn, ngày 19/10/2021.
4. Quy định số 85-QĐ/TW ngày 23/5/2017 của Bộ Chính trị về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.
5. Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
6. Quy định số 07-QĐi/TW ngày 28/8/2018 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật tổ chức đảng vi phạm.
7. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm – Nhận thức và trách nhiệm. https://ubkttw.vn, ngày 12/01/2022.
Trung tá, ThS. Hoàng Anh Tuấn
Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự, Học viện Chính trị