(Quanlynhanuoc.vn) – Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Nội vụ trong thời gian qua đã góp phần tích cực trong việc xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung, ngành Nội vụ nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, vướng mắc cần được nhìn nhận, đánh giá một cách đầy đủ để có biện pháp khắc phục. Bài viết phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Nội vụ và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Nội vụ.
Đặt vấn đề
Ngành Nội vụ có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc tham mưu giúp Đảng và Nhà nước xây dựng, hoàn thiện thể chế quản lý hành chính nhà nước; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC). Thực tế cho thấy, công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) nhân lực ngành Nội vụ đã và đang bị tác động, ảnh hưởng bởi một số yếu tố nhất định, bao gồm cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Những hạn chế, vướng mắc trong công tác ĐTBD cũng xuất phát từ việc không bảo đảm đầy đủ các yếu tố này. Vì vậy, để có cơ sở đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ, cần phải có cái nhìn toàn diện và thấu đáo về các yếu tố này.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Nội vụ
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Nội vụ
Đây là yếu tố quan trọng, căn bản, tạo nền móng và định hướng cho công tác xây dựng kế hoạch, triển khai ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội và của địa phương. Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật về ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị, cá nhân có liên quan, qua đó, kiểm tra, kiểm soát chất lượng, nội dung, hình thức tổ chức cũng như hiệu quả đạt được của các chương trình bồi dưỡng để có phương hướng phát huy những điểm mạnh và kịp thời có biện pháp điều chỉnh, khắc phục những khó khăn, vướng mắc.
Hiện nay, hệ thống văn bản quy định về công tác ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ nói riêng, ĐTBD CBCCVC nói chung đã tương đối đầy đủ, toàn diện và ngày càng cụ thể hơn, góp phần vào việc chuẩn hóa khung pháp lý cho hoạt động ĐTBD CBCCVC. Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ sửa đổi Nghị định 101/2017/NĐ-CP về ĐTBD CBCCVC đã xác định các nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Nội vụ, trong đó chú trọng ĐTBD nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ CBCCVC ngành Nội vụ để thích ứng với sự phát triển của khoa học – công nghệ và yêu cầu hội nhập quốc tế. Những quy định này từng bước được triển khai vào thực tiễn, có ảnh hưởng trực tiếp tới việc tổ chức ĐTBD cho CBCCVC nói chung và CBCCVC ngành Nội vụ nói riêng.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Nội vụ
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập là một trong những yếu tố quan trọng nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ. Việc tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị tiên tiến hiện đại sẽ tạo điều kiện cho việc học tập, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ, năng lực, góp phần nâng cao chất lượng ĐTBD. Nhìn chung, hiện nay hệ thống cơ sở vật chất phục vụ ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ về cơ bản đáp ứng được yêu cầu về giáo trình, tài liệu dạy học, hội trường, phòng học, hạ tầng công nghệ thông tin, trang thiết bị dạy và học, thư viện…
Hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Nội vụ
Nhiệm vụ ĐTBD CBCCVC nói chung và CBCCVC làm công tác Nội vụ nói riêng đã được triển khai phân cấp mạnh mẽ cho các trường chính trị cấp tỉnh và các đơn vị ĐTBD của các bộ, ngành. Về cơ sở ĐTBD, hiện nay có hai cơ sở đào tạo lớn thực hiện đào tạo chính quy một số chuyên ngành thuộc ngành Nội vụ với quy mô lớn là Học viện Hành chính quốc gia và Đại học Nội vụ Hà Nội (đều thuộc Bộ Nội vụ); các đơn vị đào tạo khác, như: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Kinh tế (thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội)… và một số cơ sở đào tạo thuộc bộ, ngành thực hiện đào tạo với quy mô tương đối nhỏ, một số cơ sở mới chỉ dừng lại ở mức độ thử nghiệm.
Chất lượng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, phương pháp giảng dạy
Đây là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ. Hiện nay, chương trình, nội dung ĐTBD để tạo nguồn nhân lực cho ngành Nội vụ đã và đang được các cơ sở đào tạo đổi mới mạnh mẽ theo hướng xây dựng chuẩn đầu ra để học viên, sinh viên khi tốt nghiệp về cơ bản đáp ứng được yêu cầu công việc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn một số hạn chế, như: nội dung đào tạo kỹ năng thông qua những tình huống thực tế chưa hiệu quả; một số lớp bồi dưỡng được bố trí đông học viên để bảo đảm kinh phí mà chưa quan tâm tới khả năng triển khai các phương pháp giảng dạy mới dẫn đến hiệu quả ĐTBD chưa cao…
Chất lượng đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên là yếu tố quyết định trong việc bảo đảm chất lượng ĐTBD. Bên cạnh đội ngũ giảng viên có trình độ, kinh nghiệm thì ở một số trường vẫn còn một bộ phận giảng viên chưa thực sự có kiến thức chuyên sâu, phương pháp giảng dạy chưa chuyên nghiệp, đặc biệt là việc cập nhật kiến thức thực tiễn liên quan đến nội dung giảng dạy còn hạn chế. Lực lượng giảng viên tham gia ĐTBD các lĩnh vực Nội vụ rất đa dạng về chuyên môn, thành phần và phân bổ không đồng đều ở các cơ sở ĐTBD. Do đặc thù của đối tượng tham gia ĐTBD và vị trí công việc mà họ đảm nhận nên việc bảo đảm một tỷ lệ nhất định các giảng viên kiêm nhiệm từ thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt là với đối tượng học viên là các CBCCVC lớn tuổi, đã có kinh nghiệm công tác và có vị trí nhất định trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Ngân sách đào tạo, bồi dưỡng
Sử dụng và quản lý ngân sách dành cho ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ công tác ĐTBD. Nguồn kinh phí được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng cần ĐTBD sẽ đem lại hiệu quả cao cho tổ chức cũng như cá nhân CBCCVC. Ngược lại, nếu nguồn ngân sách được sử dụng sai mục đích, lãng phí sẽ dẫn tới việc không những vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi chính đáng của công chức về nhu cầu được ĐTBD.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Quá trình này đã và đang mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức cho nhân lực ngành Nội vụ nói riêng và nhân lực các ngành khác nói chung. Thực tiễn cho thấy, phần lớn nhân lực trong nền công vụ Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống gương mẫu; có ý thức tổ chức kỷ luật, tu dưỡng, rèn luyện; trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực này phần nào còn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, như: hạn chế về ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; khả năng dự báo để chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch công tác, thực thi nhiệm vụ; năng lực tổng hợp và sự phối hợp; tác phong, lề lối làm việc chậm đổi mới; văn hóa công sở, giao tiếp hành chính và thái độ, ứng xử trong thực thi công vụ còn chưa chuyên nghiệp.
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Nội vụ trong giai đoạn tới
Một là, cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến công tác ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ, trong đó chú trọng những nội dung về chương trình tổng thể, kế hoạch ĐTBD; nội dung, chương trình bồi dưỡng; quy trình, thủ tục; quyền và nghĩa vụ của người học và cơ sở ĐTBD; quy định về cách thức kiểm tra, đánh giá hiệu quả ĐTBD… phải được quy định cụ thể, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện ĐTBD.
Các cơ sở ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ cần căn cứ vào hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước về ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ để cụ thể hóa thành các quy định, chương trình, kế hoạch cụ thể, phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế của từng cơ sở ĐTBD.
Hai là, cần xác định đúng đắn vị trí, vai trò của đội ngũ nhà giáo. Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) chỉ rõ: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”. Điều 66 Luật Giáo dục năm 2019 cũng khẳng định: “Nhà giáo có vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục, có vị thế quan trọng trong xã hội, được xã hội tôn vinh”. Cần quan tâm hơn nữa đến đời sống vật chất cũng như tinh thần cho các nhà giáo, nghiên cứu, triển khai những chính sách đãi ngộ cho đội ngũ giảng viên, như: chế độ ưu đãi trong học tập, nghiên cứu khoa học, điều kiện, môi trường làm việc; chế độ đãi ngộ trong việc phong, xét học hàm và các chức danh khác. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đòi hỏi mỗi giảng viên phải thường xuyên trau dồi, bổ sung, cập nhật kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ. Ngoài chuyên ngành mình phụ trách cũng cần nguồn kiến thức rộng, liên hệ với thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn.
Ba là, cần tích cực đổi mới chương trình, nội dung ĐTBD, phương pháp giảng dạy. ĐTBD phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch công chức, hạng viên chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị. Đổi mới chương trình, nội dung ĐTBD theo sát tình hình mới, đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các đối tượng giảng dạy. Bên cạnh đó, cần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Đổi mới phương pháp giảng dạy trên cơ sở ứng dụng và khai thác các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin. Đồng thời, thực hiện các hình thức tổ chức dạy học phù hợp, tập trung nâng cao tính thực hành, tương tác, làm việc nhóm, tăng cường thảo luận, khảo sát và tổng kết thực tiễn…
Bốn là, tăng cường đầu tư kinh phí, nâng cấp cơ sở vật chất, hiện đại hóa các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho giảng dạy và học tập tương xứng với nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Thực hiện ứng dụng rộng rãi các thành tựu của khoa học – công nghệ vào giảng dạy và học tập.
Năm là, gắn ĐTBD với sử dụng, đánh giá, đãi ngộ và phát triển nguồn nhân lực. Bố trí nhân sự theo đúng chuyên môn được đào tạo, theo yêu cầu của công việc; xây dựng môi trường làm việc dân chủ, sáng tạo, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh; có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám hành động và dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền. Tăng cường đào tạo gắn với kiểm tra, đánh giá chất lượng nhân sự, kiên quyết thay thế những người yếu kém về phẩm chất và năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời, cần đổi mới công tác đánh giá theo hướng tập trung vào hiệu quả công việc. Làm tốt công tác bố trí, sử dụng, đánh giá đội ngũ CBCCVC sẽ giảm được việc phải “đào tạo lại”, góp phần chống lãng phí ngân sách và tạo được động lực làm việc khi CBCCVC được bố trí “đúng người – đúng việc”.
Sáu là, nâng cao nhận thức của CBCCVC về vai trò quan trọng của ĐTBD trong suốt quá trình công tác của bản thân. Mỗi CBCCVC phải tăng cường tự đào tạo để nâng cao trình độ, kinh nghiệm và năng lực thực thi công vụ. Bên cạnh đó, cần tự trau dồi những kiến thức về chính trị, xã hội, công nghệ thông tin, ngoại ngữ, các kỹ năng mềm… đáp ứng yêu cầu của xã hội. Nhân lực ngành Nội vụ hiện nay ngoài những kỹ năng cơ bản như kỹ năng lập kế hoạch, thực hiện, tham mưu… cũng cần phải có kỹ năng thích ứng với sự thay đổi, kỹ năng vận dụng tri thức khoa học vào thực tiễn theo hướng ngày càng chuyên nghiệp hóa.
Kết luận
ĐTBD nhân lực cho ngành Nội vụ là yêu cầu cấp bách, đóng vai trò quan trọng góp phần nâng cao năng lực thực thi công vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức ngành Nội vụ, giúp hoàn thành tốt các công việc, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người dân. Muốn nâng cao chất lượng ĐTBD nhân lực ngành Nội vụ cần phải hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình ĐTBD để từ đó có những giải pháp phù hợp, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển đội ngũ CBCC ngành Nội vụ thực sự có năng lực, đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính, cải cách công vụ trong giai đoạn hiện nay.