(Quanlynhanuoc.vn) – Thời gian qua, kinh tế Việt Nam và thế giới tiếp tục chịu tác động nghiêm trọng bởi dịch Covid-19. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch vẫn còn diễn biến dai dẳng ở nhiều khu công nghiệp trên cả nước, hiện nay, nhiều nhà máy trong các khu công nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là doanh nghiệp vận tải phải đối diện nguy cơ đứt gãy, bị gián đoạn hàng loạt các chuỗi cung ứng hàng hóa và liên kết sản xuất trong nước, kéo theo tăng áp lực bảo đảm an sinh xã hội. Để tiếp sức cho các doanh nghiệp, Quốc hội, Chính phủ liên tiếp ban hành và thực thi các chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp và phục hồi, phát triểnnền kinh tế.
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp và một số chính sách tiêu biểu được ban hành và thực thi
Theo Tổng cục Thống kê, trong quý I/2021, cả nước có 29.300 doanh nghiệp (DN) đăng ký thành lập mới, giảm 1,4%; có 14.700 DN quay trở lại hoạt động, giảm 0,5%; Đồng thời, có 40.300 DN tạm ngừng kinh doanh, tăng 15,6%, trung bình mỗi tháng có tới 13.400 DN rút lui khỏi thị trường, trong khi chỉ có gần 14.700 DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động1. Trong 8 tháng đầu năm 2021, cả nước có 43.165 DN tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, và 12.196 DN giải thể, trong khi có 81.582 DN đăng ký mới và 32.441 DN quay lại hoạt động2…
Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hiện chiếm khoảng 98% tổng số DN đang hoạt động tại Việt Nam, đóng góp tới 45% vào GDP, 31% vào tổng số thu ngân sách và thu hút hơn 5 triệu lao động. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 1,7 triệu DN nhỏ và siêu nhỏ. Dự kiến đến năm 2030, con số này tăng lên khoảng 2,4 triệu DN. Số lượng DNNVV chiếm tỷ lệ đến 96% trong tổng số doanh nghiệp được thành lập trong cả nước. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa rất cần sự hỗ trợ3.
Cộng đồng DN trong nước và DN nước ngoài tại Việt Nam ghi nhận, đánh giá cao nhiều quyết sách từ Quốc hội và Chính phủ hỗ trợ DN kịp thời trong thời gian gần đây, tiêu biểu, như: cắt giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cho các DN chủ yếu thuộc quy mô vừa và nhỏ, có doanh số dưới 200 tỷ đồng/năm; kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp từ ngày 01/01/2021 tới năm 2025 (miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm); giãn, hoãn thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế TNDN, tiền thuê đất và các chính sách nới lỏng về tín dụng của các ngân hàng. Đặc biệt, ngày 19/4/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2021/NĐ-CP về gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2021, thời gian được gia hạn từ 3 – 6 tháng và người nộp thuế phải thực hiện nộp ngân sách chậm nhất vào cuối năm 2021. Tổng số tiền dự kiến được hoãn, giãn nộp thuế ước tính khoảng 115.000 tỷ đồng. Nghị định số52/2021/NĐ-CP có đối tượng áp dụng mở rộng hơn, thời gian giãn nộp kéo dài hơn so với Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 về gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2020 và Nghị định số 109/2020/NĐ-CP ngày 05/9/2020 về gia hạn thuế tiêu thụ đặc biệt đối xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước. Việc giãn thời gian nộp thuế và tiền thuê đất giúp DN có thêm nguồn lực tài chính giúp tăng sức chống chiụ trước các nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng, bất ổn hoặc giảm sút sức mua thị trường.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang áp dụng việc giảm thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay trong năm 2021 nhằm hỗ trợ ngành hàng không; cho phép tính vào chi phí được trừ của DN, tổ chức đối với các khoản chi ủng hộ, tài trợ cho các hoạt động phòng, chống dịch Covid-19 khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN áp dụng cho năm 2020 và 2021 (ước tính số tiền thuế DN được giảm nghĩa vụ khoảng 170 tỷ đồng/năm); giảm các loại phí liên quan đến thành lập, công bố thông tin DN, thẩm định sửa đổi, bổ sung giấy phép hoạt động… Ngày 24/6/2021, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 47/2021/TT-BTC quy định giảm mức thu 30 khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất – kinh doanh và bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Thời gian giảm phí, lệ phí áp dụng kể từ ngày 01/7/2021 đến hết ngày 31/12/2021. Như vậy, Thông tư này đã tiếp nối Thông tư số 112/2020/TT-BTC ngày 29/12/2020 quy định mức thu một số khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất – kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19, tiếp tục gia hạn cho 29 loại phí, lệ phí đã được giảm trong 6 tháng đầu năm 2021, đồng thời bổ sung giảm thêm mức thu 01 khoản phí trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo đó, nhiều mức phí, lệ phí giảm cao, như: giảm 70% các mức thu lệ phí đăng ký doanh nghiệp; giảm 67% mức thu phí công bố thông tin doanh nghiệp; giảm từ 50-70% mức thu phí thẩm định cấp sửa đổi, bổ sung giấy phép hoạt động bưu chính; giảm 50% mức thu phí cấp giấy phép hoạt động của tổ chức tín dụng, phí thẩm định dự án đầu tư xây dựng và 20/22 khoản phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán…
Những quy định, chính sách đã có tác động khá tích cực đến hoạt động của DN và phù hợp với các cam kết, xu hướng chung quốc tế. Đáng chú ý, Luật Quản lý thuế năm 2019 (có hiệu lực từ tháng 7/2020) được kỳ vọng cải thiện môi trường kinh doanh với cải tiến về thời gian làm thủ tục, cắt giảm nghĩa vụ làm thủ tục hành chính, tháo gỡ các vướng mắc về kê khai và nộp thuế điện tử; bổ sung quy định về quyền được thông tin về thanh, kiểm tra… Tuy nhiên, theo VCCI, trung bình vẫn có 22% DN gặp khó khăn khi thực hiện thủ tục hành chính lĩnh vực thuế, như: đề nghị miễn, giảm thuế (23% DN gặp phải), hoàn thuế (18%), quyết toán thuế (17%)4… Việc giảm phí, lệ phí có hiệu ứng tích cực, nhưng các quy định về quy trình, thủ tục còn cứng nhắc, khó khăn trong thực tế triển khai, khiến DN phát sinh thêm chi phí.
Đề xuất giải pháp chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong bối cảnh những tác động của dịch Covid-19, để hỗ trợ phát triển DN, thực tế đòi hỏi cần cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng thực thi của hệ thống chính quyền cấp cơ sở, tiếp tục thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm gánh nặng thanh tra, kiểm tra và chi phí không chính thức cho các DN. Đồng thời, tăng cường kiểm soát tham nhũng, cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ công, hoàn thiện hệ thống thủ tục, quy định và nâng cấp mạnh mẽ chất lượng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy sự minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nhà nước các cấp…
Thứ nhất, cần thiết phải có những chính sách trợ giúp khác nhau cho khu vực DNNVV, đặc biệt việc đẩy mạnh triển khai Luật Hỗ trợ DNNVV. Đây là văn bản luật quan trọng khẳng định cam kết của Nhà nước về phát triển khu vực kinh tế tư nhân, với mục tiêu đưa DN khu vực tư nhân trở thành động lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Luật Hỗ trợ DNNVV được Quốc hội thông qua ngày 12/6/2017 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Luật đã triển khai được hơn 4 năm, đến nay, tỷ lệ DN đã hưởng hỗ trợ từ các chương trình còn khá khiêm tốn. Việc nghiên cứu, đưa ra các điều chỉnh phù hợp trong triển khai thực hiện Luật Hỗ trợ DNNVV vào thời điểm này là rất quan trọng, trong bối cảnh cộng đồng DN đang cần thêm những sự hỗ trợ kịp thời để phục hồi sau hơn hai năm chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Thứ hai, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương liên quan rà soát, loại bỏ các quy định đang gây áp lực về chi phí cho DN, đơn giản hóa tối đa quy trình hành chính hiện tại, hoặc xem xét áp dụng các quy trình xuất, nhập khẩu ưu tiên (như trường hợp vừa áp dụng với việc xuất khẩu vải thiều), đẩy nhanh quy trình, thủ tục nhập về các mặt hàng thiết yếu và xuất khẩu các sản phẩm nông sản, các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ đạo để hỗ trợ các DN tối ưu thời gian, chi phí ở các khâu thực hiện trong nước; giảm thiểu thực tế các chi phí tuân thủ trong quản lý nhà nước và tiết giảm hoặc tối ưu được dòng tiền chi ra để vượt qua khó khăn. Mặt khác, cần nhận diện, xử lý nghiêm khắc, kịp thời các hành vi gây “nhũng nhiễu”, khó khăn cho doanh nghiệp trong sản xuất – kinh doanh.
Thứ ba, cần lưu ý rằng, so với quy mô tài chính, phương thức, giải pháp và đối tượng các gói hỗ trợ DN và người dân của Chính phủ nhiều nước đối với công tác phòng, chống dịch Covid-19 năm 2020 và 2021 thì các gói hỗ trợ của Việt Nam thực sự còn khiêm tốn… Bởi vậy, sẽ là không đủ nếu DN bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 không nhận được thêm những giải pháp thiết thực khác, như: giảm lãi suất cho vay và linh hoạt hơn các điều kiện tiếp cận thực tế tín dụng ngân hàng; các quy trình và giá cả dịch vụ quản lý dịch vụ công phải bảo đảm sự thuận lợi, đồng thời tiết giảm chi phí trong lưu thông hàng hóa thông suốt…; tiếp tục đẩy mạnh công tác tiêm vaccine Covid-19 cho người lao động tại các DN, tổ chức tiêm phòng cho nhân viên theo đúng hướng dẫn và các yêu cầu an toàn của Bộ Y tế, bảo đảm tiến độ, an toàn, hiệu quả…
Dịch Covid-19 đã, đang và sẽ tiếp tục làm thay đổi thế giới, cả trong tư duy và phương thức quản lý, sản xuất, phân phối, tiêu dùng các nguồn lực và của cải xã hội, trên phương diện vĩ mô và vi mô, trong quản trị DN, cũng như quản lý nhà nước đối với hoạt động của các DN, trong đó có các DNNVV. Những quyết sách của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giúp các DN đặc biệt là các DNNVV củng cố niềm tin và có động lực mạnh mẽ hơn nhằm khắc phục thiệt hại, vực dậy sản xuất – kinh doanh, đồng hành cùng Chính phủ trong thực hiện mục tiêu kép “vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế”.