Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tư thục tại TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – TP. Hồ Chí Minh là trung tâm chính trị, văn hóa và kinh tế trọng điểm của cả nước vì vậy vấn đề quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tư thục của Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh là hết sức quan trọng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tư thục trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của TP. Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
Ảnh minh họa (internet).
Đặt vấn đề

Đào tạo nghề trong bối cảnh hội nhập và phát triển của nước ta đang là vấn đề hết sức quan trọng. Năng suất và chất lượng lao động xã hội phụ thuộc phần lớn vào năng lực đào tạo nghề. Trong những năm gần đây, hệ thống đào tạo nghề đã được tái cấu trúc và phát triển phù hợp với nhu cầu phát triển của thị trường lao động, trong đó có đóng góp rất lớn của hệ thống đào tạo nghề tư thục. Tuy nhiên, tiến trình phát triển đó đang bộc lộ những hạn chế nhất định, trong đó có công tác quản lý nhà nước (QLNN) về giáo dục nghề nghiệp tư thục (GDNNTT). Đặc biệt trong mỗi địa phương lại có những đặc thù nhất định, vì vậy, càng đặt ra cho công tác QLNN về vấn đề này một cách phù hợp.

Thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tư thục tại TP. Hồ Chí Minh

Những năm gần đây, nhằm đạt mục tiêu đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất – kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Ủy ban nhân dân (UBND) TP. Hồ Chí Minh đã ban hành các văn bản, chính sách ưu đãi khuyến khích xã hội hóa, hỗ trợ phát triển GDNNTT sau đây:

Quyết định số 50/2015/QĐ-UBND ngày 30/10/2015 quy định về thực hiện Chương trình kích cầu đầu tư của TP. Hồ Chí Minh nhằm thúc đẩy xã hội hóa một số lĩnh vực trên địa bàn Thành phố, trong đó bao gồm lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Hiện nay, có 8 dự án được UBND Thành phố phê duyệt tham gia Chương trình kích cầu đầu tư của Thành phố theo Quyết định số 50/2015/QĐ-UBND với tổng vốn đầu tư là 1.101.077 triệu đồng, trong đó số vốn được ngân sách hỗ trợ lãi suất là 373.370 triệu đồng.

Quyết định số 39/2015/QĐ-UBND ngày 11/8/2015 của UBND TP. Hồ Chí Minh về chế độ miễn, giảm tiền thuê đất đối với các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, môi trường, giám định tư pháp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

Quyết định số 3077/QĐ-UBND ngày 23/6/2014 về phê duyệt Đề án “Quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý ngành Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2013 – 2020”, trong đó bao gồm đối tượng là các cán bộ quản lý, nhà giáo thuộc các trường cao đẳng, trung cấp.

Đánh giá thực trạng QLNN về GDNNTT tại TP. Hồ Chí Minh trong những năm qua cho thấy:

(1) Kết quả đạt được: tổ chức bộ máy quản lý về GDNNTT cơ bản được kiện toàn, đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, nhiệt tình và trách nhiệm. Đội ngũ giáo viên từng bước được chuẩn hóa về chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề quốc gia. Thể chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục nghề được ban hành tương đối đầy đủ, tạo hành lang pháp lý vững chắc đã giúp cho công tác QLNN về GDNNTT tại TP. Hồ Chí Minh có nhiều thuận lợi; xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch về phát triển GDNNTT được triển khai kịp thời, đúng quy định; hoạt động thanh tra, kiểm tra về GDNNTT được duy trì thực hiện hằng năm. Điều này đã giúp chấn chỉnh công tác chuyên môn của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp dần đi vào nề nếp và ổn định.

(2) Những hạn chế, bất cập: tổ chức bộ máy quản lý về GDNNTT tuy được chú trọng kiện toàn nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao, sự phân công, phối hợp giữa các sở, ban, ngành chức năng của Thành phố chưa hiệu quả. Cán bộ chuyên trách ít nhưng địa bàn quản lý rộng, cơ sở GDNNTT nhiều nên việc quản lý chưa sâu sát. Văn bản quy phạm pháp luật về: thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký bổ sung hoạt động giáo dục nghề nghiệp, về thanh toán chi phí, về vay vốn đầu tư, về cho thuê đất, về thuế có nhiều bất cập và thủ tục rườm rà ảnh hưởng đến thu hút đầu tư phát triển GDNNTT. Chính sách đối với GDNNTT chưa hiệu quả, chưa mang tính định hướng và tạo động lực phát triển.

(3) Nguyên nhân là do hệ thống thể chế, chính sách về GDNNTT còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ, chưa khả thi và chưa phù hợp với thực tiễn địa phương. GDNNTT có những đặc thù riêng nhưng chưa có chính sách riêng mà hầu hết đều thực hiện theo các văn bản quy định chung cho cả loại hình giáo dục nghề nghiệp công lập và của cấp Chính phủ.

Xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp còn nhiều bất cập, chưa thu hút được doanh nghiệp và các nhà đầu tư tham gia sâu vào các hoạt động GDNNTT, đào tạo nguồn nhân lực…

Tâm lý xã hội còn coi trọng bằng cấp, chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp nên một bộ phận không nhỏ phụ huynh vẫn hướng con em vào học giáo dục đại học. Ngoài ra, nhận thức của các cấp lãnh đạo ở TP. Hồ Chí Minh về xã hội hóa GDNNTT có nơi chưa thật sự sâu sắc, đầy đủ; tồn tại quan niệm cơ sở giáo dục tư thục không thể được coi ngang hàng với cơ sở công lập.

Quan điểm “chú trọng phát triển giáo dục ngoài công lập” của Đảng và Nhà nước chưa được nhận thức, tư duy và hành động đầy đủ, sâu sắc. QLNN đối với GDNNTT tại thành phố chậm được đổi mới theo hướng chú trọng chất lượng, chưa xây dựng quy hoạch, kế hoạch chi tiết, thể chế cần thiết cho GDNNTT chưa hiệu quả, chưa đồng bộ và thiếu khả thi.

Phân cấp quản lý còn chồng chéo, phối hợp giữa sở, ban, ngành giáo dục nghề nghiệp với các đơn vị khác trong thành phố kém hiệu quả.

Đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu về số lượng, chất lượng. Phân công cán bộ quản lý về giáo dục nghề nghiệp chưa hợp lý, bao gồm cả việc phân công quản lý theo địa bàn bao gồm cả giáo dục nghề nghiệp công lập và giáo dục nghề nghiệp tư thục; chưa bố trí công chức quản lý riêng về GDNNTT; chưa bảo đảm tỷ lệ giáo viên trên học sinh đạt chuẩn chuyên ngành. Thực tập tại doanh nghiệp, nghiên cứu khoa học, kỹ năng giảng dạy thực hành của đội ngũ giáo viên dạy nghề tư thục vẫn còn hạn chế do thiếu quan tâm của thủ trưởng các cơ sở GDNNTT trong việc thực hiện đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn theo quy định.

Thanh tra, kiểm tra đối với GDNNTT thiếu những biện pháp hữu hiệu nên chậm phát hiện những sai phạm và chưa có biện pháp khắc phục triệt để các sai phạm trong các cơ sở GDNNTT. Năng lực chuyên môn của cán bộ thanh tra về GDNNTT chưa được đào tạo bài bản. Chưa nhận thức đúng và đầy đủ về vai trò ý nghĩa của công tác thanh tra, kiểm tra. Kết quả kiểm tra nội bộ nhà trường chỉ mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất, chưa thực hiện có hiệu quả 4 chức năng của kiểm tra là kiểm tra, đánh giá, tư vấn, thúc đẩy; chưa tạo được động lực làm việc và những cải tiến mới sau kiểm tra.

Một số giải pháp

Để đạt được mục tiêu phát triển GDNNTT, đề xuất UBND TP. Hồ Chí Minh  một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý GDNNTT.

Đẩy mạnh phân cấp, quy định cụ thể về trách nhiệm và quyền hạn của từng cấp trong QLNN đối với GDNNTT. Đây cũng là cơ sở cho hoạt động QLNN đối với GDNNTT trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, vừa bảo đảm theo phân cấp, phân quyền hợp lý và bảo đảm giám sát, kiểm tra, đánh giá. Theo đó, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội cần hình thành phòng, ban hoặc bộ phận chuyên trách quản lý GDNNTT và sẽ là đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm chính trong công tác tham mưu, thực hiện các chức năng QLNN đối với cơ sở GDNNTT. Tiếp tục bố trí nhân sự, phân công cụ thể đi đôi với việc xác định trách nhiệm và phát huy vai trò của người đứng đầu, nhất là ở Sở Lao động – Thương binh và xã hội, Sở Nội vụ, Sở Tài chính. Xây dựng bản mô tả công việc cho vị trí công chức chuyên trách hoặc kiêm nhiệm QLNN đối với GDNNTT. Từ đó xác định rõ nhiệm vụ cần thiết phải làm, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, môi trường và các điều kiện khác để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Thành lập Hội đồng giáo dục nghề nghiệp thành phố với vai trò là cơ quan tư vấn chính sách, khuyến nghị và điều phối, xây dựng, giám sát các chương trình hỗ trợ đổi mới GDNNTT của Thành phố.

Thứ hai, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên tại các cơ sở GDNNTT.

Xây dựng khung năng lực đối với cán bộ quản lý, giáo viên GDNNTT tại TP. Hồ Chí Minh để làm căn cứ tuyển dụng, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, bổ nhiệm và đánh giá đội ngũ này. Bố trí đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên GDNNTT đủ về số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định. Chỉ cấp phép mở ngành mới đối với cơ sở GDNNTT khi và chỉ khi bảo đảm tiêu chuẩn của cơ sở GDNNTT. Xây dựng mối quan hệ với doanh nghiệp để gửi đội ngũ nhà giáo học tập, thực tập tại doanh nghiệp nhằm nâng cao kỹ năng nghề và cập nhật công nghệ, kỹ thuật hiện đại, quy trình sản xuất tiên tiến, từ đó nâng chất lượng dạy tích hợp năng lực và thực hành nghề.

Thứ ba, hoàn thiện hệ thống văn bản QLNN về GDNNTT của UBND TP. Hồ Chí Minh.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản QLNN chính là phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về GDNNTT, phát hiện những văn bản trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; từ đó, kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành văn bản này. Vì vậy, rà soát, sửa đổi, bổ sung có tác dụng tạo cơ sở cho sự đổi mới về chất một số văn bản QLNN, làm cho các văn bản đó được cải tiến so với các quy định trước đó, đồng thời tạo ra sự thống nhất, hài hoà giữa các văn bản sẽ được ban hành với hệ thống pháp luật hiện hành.

UBND TP. Hồ Chí Minh cần tập trung ban hành các văn bản quy định về phân cấp, phối hợp QLNN đối với GDNNTT, theo đó xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan QLNN trong lĩnh vực GDNNTT ở Thành phố, quận, huyện và các cấp liên quan; hoàn thiện tổ chức cơ quan chuyên môn (Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, phòng Giáo dục nghề nghiệp); quy định về giao quyền và trách nhiệm cho cơ quan chuyên môn; phối hợp trong công tác tham mưu xây dựng văn bản; phối hợp trong công tác tổ chức bộ máy, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, thi đua khen thưởng. UBND TP. Hồ Chí Minh cần chủ động ban hành các chính sách ưu đãi đồng bộ, cụ thể, khả thi và phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương nhằm hỗ trợ và huy động nguồn lực phát triển GDNNTT.

Thứ tư, đổi mới QLNN về lập quy hoạch, kế hoạch phát triển GDNNTT.

Cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển GDNNTT khoa học và khả thi. Quy hoạch, kế hoạch phát triển của UBND TP. Hồ Chí Minh đều xác định chung cho giáo dục nghề nghiệp công lập và giáo dục nghề nghiệp tư thục, chưa có quy hoạch cụ thể cho phát triển GDNNTT. Vì vậy, trong quy hoạch, kế hoạch dài hạn, UBND TP. Hồ Chí Minh cần xác định rõ nội dung phát triển cho GDNNTT trong các giai đoạn nhất định.

Thứ năm, đổi mới thanh tra, kiểm tra GDNNTT của UBND TP. Hồ Chí Minh

Xây dựng, hoàn thiện văn bản QLNN về thanh tra, kiểm tra của UBND TP. Hồ Chí Minh; tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên về công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm đối với hoạt động GDNNTT làm cho mọi người hiểu đúng đắn và thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về GDNNTT. Hiệu lực, hiệu quả của thanh, kiểm tra phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, do đó việc bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ những người làm công tác thanh tra là quan trọng và cần thiết. Đổi mới và sử dụng linh hoạt các hình thức thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở GDNNTT sao cho phù hợp với đối tượng và nội dung thanh tra như: thanh tra cả hệ thống (các trường và các cơ quan quản lý GDNN tại địa phương); thanh tra các cá nhân (hiệu trưởng, quản lý giáo viên các cơ sở GDNNTT); thanh tra một cơ quan đơn vị; thanh tra các lĩnh vực (các bộ phận trong các cơ sở GDNNTT) hay thanh tra theo các chuyên đề. Có hình thức xử lý nghiêm khắc đối với các thanh tra viên không hoàn thành nhiệm vụ được giao, không trung thực, thiếu khách quan, báo cáo những vấn đề không sát thực tế, có biểu hiện nể nang khi đánh giá đối tượng được thanh tra, không hoàn thành chỉ tiêu, kế hoạch thanh tra hằng năm.

Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo Đánh giá thực trạng và định hướng mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp của Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
2. Báo cáo tổng kết năm 2017, 2018, 2019, 2020 của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội TP. Hồ Chí Minh.
3. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
4. Nghị quyết số 617/NQ-BCSĐ ngày 28/12/2018  Ban Cán sự Đảng Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2021 và định hướng đến năm 2030.
5. Quyết định số 2567/QĐ-UBND ngày 23/5/2017 của Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh về Ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020.
Nguyễn Thị Nhung
Trường Cao đẳng Nông nghiệp Nam Bộ