Vấn đề giới và bình đẳng giới trong phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi

(Quanlynhanuoc.vn) – Thực hiện mục tiêu Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030 được tích hợp, lồng ghép giới vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội là một giải pháp quan trọng nhằm tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó, bài viết đề cập cách tiếp cận, nguyên tắc và nội dung tích hợp giới trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, hướng đến bình đẳng giới một cách toàn diện, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước
Ảnh minh họa. Nguồn: nhandan.vn
Đặt vấn đề

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 (sau đây viết tắt là Chương trình) có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong thực hiện thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc trong phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030 và hiện thực hóa Chương trình hành động quốc gia về thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam (theo Chương trình Nghị sự số 2030 của Liên hiệp quốc); đồng thời, góp phần hiện thực hóa Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới (BĐG) giai đoạn 2021 – 2030, thông qua tích hợp giới, bảo đảm BĐG, tạo cơ hội để mọi người, cộng đồng tiếp cận, tham gia và hưởng lợi bình đẳng cùng phát triển, không để ai bị bỏ lại phía sau, trong đó đặc biệt quan tâm đến phụ nữ và trẻ em DTTS.

Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 thành phần  DTTS với 14,6 triệu người, sinh sống trên ¾ diện tích tự nhiên của cả nước (phụ nữ DTTS có gần 7,1 triệu người, chiếm 49,9% người). Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề BĐG và sự tiến bộ của phụ nữ nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng. Đặc biệt là những chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ để giải quyết những vấn đề tồn tại, hạn chế về BĐG ở vùng đồng bào DTTS các năm 2019 – 2022.

Số liệu thống kê cơ bản về đời sống xã hội các DTTS trong những năm gần đây cho thấy, đời sống của phụ nữ DTTS ngày càng được cải thiện và tiến bộ. Tuy nhiên, giải quyết cơ bản tình trạng bất BĐG vùng đồng bào DTTS cần có một hệ thống chính sách toàn diện về những vấn đề cơ bản vùng đồng bào DTTS nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển ở vùng I, vùng II và vùng III (vùng đặc biệt khó khăn phân theo trình độ phát triển) là hết sức cần thiết. Bởi, chính sách dân tộc là hệ thống chính sách đặc thù về mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội mang tính đa ngành, do vậy, để thúc đẩy BĐG tại vùng DTTS cần thiết phải tích hợp giới vào các chương trình, dự án phát triển.

Tại Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Có cơ chế để phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận tốt hơn dịch vụ công, dịch vụ xã hội thiết yếu. Quan tâm tạo nguồn cán bộ nữ dân tộc thiểu số; hỗ trợ nâng cao năng lực để tham gia vị trí quản lý lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị”. Hiện nay, việc đưa vấn đề giới và tích hợp giới vào các chính sách, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển là một chiến lược đã được toàn thế giới chấp nhận nhằm hướng tới BĐG.

Từ lý thuyết về giới và BĐG cho thấy tích hợp giới bảo đảm các thể chế, chính sách, chương trình phát triển kinh tế – xã hội sẽ đáp ứng các nhu cầu, mối quan tâm của phụ nữ và nam giới, phân bổ lợi ích công bằng giữa phụ nữ và nam giới. Tích hợp giới sẽ góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và nâng cao trách nhiệm xã hội của cả nam và nữ. Theo đó, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược quốc gia về BĐG, chương trình mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội vùng DTTS và miền núi đã dựa trên cách tiếp cận và nguyên tắc BĐG, trong đó đặc biệt quan tâm nhóm phụ nữ, trẻ em gái vùng đồng bào DTTS để họ thực sự có cơ hội, điều kiện phát huy vị thế và vai trò của mình trong đời sống kinh tế – xã hội; tạo điều kiện thoát khỏi cảnh đói nghèo, cải thiện, nâng cao mức sống, nâng cao năng lực cho phụ nữ.

Cách tiếp cận tổng thể, toàn diện và nguyên tắc tích hợp giới trong mục tiêu quốc gia vùng dân tộc thiểu số, miền núi

Tích hợp giới nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong chương trình mục tiêu quốc gia đối với vùng DTTS và miền núi cần được tiếp cận một cách tổng thể, toàn diện, trong tất cả dự án thành phần và trong suốt quá trình nghiên cứu, thiết kế, triển khai cũng như trong hoạt động giám sát, đánh giá. Từ đó, bảo đảm cơ hội tiếp cận nguồn lực công bằng cho nam và nữ, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái. Tích hợp giới gắn với cách tiếp cận phát triển bền vững và các cam kết của Việt Nam trong Kế hoạch hành động quốc gia về thực hiện mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên hiệp quốc (Quyết định số 622/2017/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ), trong đó đưa ra mục tiêu số 5, yêu cầu trao quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ, trẻ em gái, nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chương trình quốc gia phù hợp với vùng miền, nhóm DTTS cụ thể. Đây là mục tiêu xuyên suốt, có liên quan tới các mục tiêu còn lại trong 17 mục tiêu phát triển bền vững.

Việc tiếp cận tổng thể, toàn diện khi tích hợp giới trong chương trình mục tiêu quốc gia là biện pháp cần thiết để thúc đẩy và đạt được mục tiêu BĐG trong vùng đồng bào DTTS. Tích hợp giới bao gồm việc đưa mục tiêu BĐG vào các dự án, tiểu dự án của Chương trình sẽ giải quyết từng bước các vấn đề về bất BĐG tại vùng DTTS, góp phần đạt được mục tiêu chiến lược quốc gia về BĐG Việt Nam đến năm 2030.

Nguyên tắc của quá trình tích hợp giới là bảo đảm vấn đề giới xuyên suốt của Chương trình, bao gồm:

(1) Thực hiện BĐG và giải quyết các vấn đề cấp thiết của phụ nữ và trẻ em để đạt được mục tiêu BĐG trong vùng DTTS đã được đưa vào các dự án, tiểu dự án.

(2) Bảo đảm vai trò và sự tham gia, hưởng lợi của phụ nữ, như: bảo đảm vai trò và sự tham gia của phụ nữ trong lập kế hoạch thực hiện các hoạt động; vai trò của phụ nữ trong giám sát thực hiện; phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội; bảo đảm các hoạt động liên quan đến thúc đẩy BĐG được phân bổ ngân sách một cách phù hợp; có các chỉ tiêu cụ thể về thực hiện BĐG trong các dự án, tiểu dự án thuộc Chương trình.

Hiện thực hóa mục tiêu Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030

Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2021 – 2030, đề ra 6 mục tiêu, gồm:

(1) Trong lĩnh vực chính trị: đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ.

(2) Trong lĩnh vực kinh tế, lao động: chỉ tiêu 1: tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương lên đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030; chỉ tiêu 2: giảm tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030; chỉ tiêu 3: Tỷ lệ nữ giám đốc, chủ doanh nghiệp, hợp tác xã đạt ít nhất 27% vào năm 2025 và 30% vào năm 2030.

(3) Trong đời sống gia đình và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới: chỉ tiêu 1: giảm số giờ trung bình làm công việc nội trợ và chăm sóc trong gia đình không được trả công của phụ nữ còn 1,7 lần vào năm 2025 và 1,4 lần vào năm 2030 so với nam giới; chỉ tiêu 2: đến năm 2025 đạt 80% và đến 2030 đạt 90% người bị bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện được tiếp cận ít nhất một trong các dịch vụ hỗ trợ cơ bản; đến năm 2025 đạt 50% và đến năm 2030 đạt 70% người gây bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện ở mức chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự được tư vấn, tham vấn; chỉ tiêu 3: từ năm 2025 trở đi, 100% số nạn nhân bị mua bán trở về được phát hiện có nhu cầu hỗ trợ được hưởng các dịch vụ hỗ trợ và tái hòa nhập cộng đồng; chỉ tiêu 4: đến năm 2025 có 70% và năm 2030 có 100% cơ sở trợ giúp xã hội công lập triển khai các hoạt động trợ giúp, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới.

(4) Trong lĩnh vực y tế: chỉ tiêu 1: tỷ số giới tính khi sinh ở mức 111 bé trai/100 bé gái sinh ra sống vào năm 2025 và 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống vào năm 2030; chỉ tiêu 2: tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản giảm còn 42/100.000 trẻ sinh sống vào năm 2025 và xuống dưới 42/100.000 vào năm 2030; chỉ tiêu 3: tỷ suất sinh ở vị thành niên giảm từ 23 ca sinh/1.000 phụ nữ xuống 18/1.000 vào năm 2025 và dưới 18/1.000 vào năm 2030; chỉ tiêu 4: tỷ lệ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có ít nhất một cơ sở y tế cung cấp thí điểm dịch vụ chăm sóc sức khỏe dành cho người đồng tính, song tính và chuyển giới đạt 40% vào năm 2025 và 70% vào năm 2030.

(5) Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: chỉ tiêu 1: nội dung về giới, BĐG được đưa vào chương trình giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân và được giảng dạy chính thức ở các trường sư phạm từ năm 2025 trở đi; chỉ tiêu 2: tỷ lệ trẻ em trai và trẻ em gái DTTS hoàn thành giáo dục tiểu học đạt trên 90% vào năm 2025 và khoảng 99% vào năm 2030; tỷ lệ hoàn thành cấp trung học cơ sở đạt khoảng 85% vào năm 2025 và 90% vào năm 2030; chỉ tiêu 3: tỷ lệ nữ học viên, học sinh, sinh viên được tuyển mới thuộc hệ thống giáo dục nghề nghiệp đạt trên 30% vào năm 2025 và 40% vào năm 2030; chỉ tiêu 4: tỷ lệ nữ thạc sỹ trong tổng số người có trình độ thạc sỹ đạt không dưới 50% từ năm 2025 trở đi. Tỷ lệ nữ tiến sỹ trong tổng số người có trình độ tiến sỹ đạt 30% vào năm 2025 và 35% vào năm 2030.

(6) Trong lĩnh vực thông tin, truyền thông: chỉ tiêu 1: phấn đấu đạt 60% vào năm 2025 và 80% vào năm 2030 dân số được tiếp cận kiến thức cơ bản về BĐG; chỉ tiêu 2: từ năm 2025 trở đi 100% tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan hành chính, ban, ngành, đoàn thể các cấp được phổ biến, cập nhật thông tin về BĐG và cam kết thực hiện BĐG; chỉ tiêu 3: từ năm 2025 trở đi 100% xã, phường, thị trấn mỗi quý có ít nhất 4 tin, bài về BĐG trên hệ thống thông tin cơ sở; chỉ tiêu 4: duy trì đạt 100% đài phát thanh và đài truyền hình ở trung ương và địa phương có chuyên mục, chuyên đề nâng cao nhận thức về BĐG hằng tháng.

Để góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược quốc gia về BĐG, trong 10 dự án thành phần thuộc Chương trình, có dự án số 8 với tiêu đề “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” tập trung hơn về vấn đề này. Tiếp đó, tháng 10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt: “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 – 2025”.

Vấn đề giới và bình đẳng giới trong Đề án 8 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi

Để thực hiện BĐG và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em, Đề án 8 thuộc Chương trình đã đưa ra mục tiêu: nâng cao nhận thức, thay đổi định kiến, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ, chăm sóc phụ nữ và trẻ em, thực hiện mục tiêu BĐG. Các nội dung trong Đề án này gồm:

(1) Hoạt động tuyên truyền, vận động thay đổi “nếp nghĩ, cách làm”, góp phần xóa bỏ các định kiến và khuôn mẫu giới trong gia đình và cộng đồng, những tập tục văn hóa có hại và một số vấn đề xã hội cấp thiết cho phụ nữ và trẻ em; xây dựng các nhóm truyền thông tiên phong thay đổi trong cộng đồng; thực hiện các chiến dịch truyền thông xóa bỏ định kiến và khuôn mẫu giới, xây dựng môi trường sống an toàn cho phụ nữ và trẻ em; hội thi/liên hoan các mô hình sáng tạo và hiệu quả trong xóa bỏ định kiến giới, bạo lực gia đình và mua bán phụ nữ và trẻ em; triển khai 4 gói hỗ trợ phụ nữ DTTS sinh đẻ an toàn và chăm sóc sức khỏe trẻ em.

(2) Xây dựng và nhân rộng các mô hình thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ; thúc đẩy BĐG và giải quyết những vấn đề cấp thiết của phụ nữ và trẻ em; phát triển và nhân rộng mô hình tiết kiệm và tín dụng tự quản để tăng cường tiếp cận tín dụng, cải thiện cơ hội sinh kế, tạo cơ hội tạo thu nhập và lồng ghép giới; hỗ trợ ứng dụng khoa học – công nghệ để nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ DTTS; thí điểm và nhân rộng mô hình địa chỉ an toàn hỗ trợ bảo vệ phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình; thí điểm và nhân rộng mô hình hỗ trợ phát triển sinh kế, hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân mua bán người.

(3) Bảo đảm tiếng nói và sự tham gia thực chất của phụ nữ và trẻ em trong các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội của cộng đồng, giám sát và phản biện; hỗ trợ phụ nữ tham gia lãnh đạo trong hệ thống chính trị; bảo đảm tiếng nói và vai trò của phụ nữ trong các vấn đề kinh tế – xã hội tại địa phương; bảo đảm tiếng nói và vai trò của trẻ em gái trong phát triển kinh tế – xã hội của cộng đồng thông qua mô hình Câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi”; công tác giám sát và đánh giá về thực hiện BĐG trong thực hiện Chương trình; nâng cao năng lực của phụ nữ DTTS tham gia ứng cử, vận động bầu cử vào các cơ quan dân cử.

(4) Trang bị kiến thức về BĐG, kỹ năng thực hiện lồng ghép giới cho cán bộ trong hệ thống chính trị, già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo và người có uy tín trong cộng đồng; xây dựng chương trình phát triển năng lực thực hiện BĐG; xây dựng đội ngũ giảng viên nguồn về lồng ghép giới; thực hiện các hoạt động phát triển năng lực cho các cấp; đánh giá kết quả hoạt động phát triển năng lực.

Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ giao cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện Đề án này và chủ trì, phối hợp với Ủy ban Dân tộc cùng các bộ, ngành xây dựng văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện với nhu cầu vốn và dự kiến nguồn vốn để thực hiện Dự án 8: 2.387,812 tỷ đồng (trong đó, ngân sách trung ương: 2.382,427 tỷ đồng (vốn sự nghiệp) và ngân sách địa phương: 5,385 tỷ đồng).

Dự báo hiệu quả tác động thúc đẩy bình đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số từ Chương trình

Với cách tiếp cận toàn diện và nguyên tắc tích hợp vấn đề giới vào các nội dung, hoạt động của Chương trình, có thể dự báo tác động tổng thể trên nhiều khía cạnh đối với đời sống xã hội vùng DTTS giai đoạn 2021 – 2030.

Một là, cách tiếp cận khoa học (tiếp cận, kiểm soát, trao quyền thông qua tăng cường sự tham gia), thực hiện các bước phân tích giới, phát hiện vấn đề dựa trên những số liệu, bằng chứng cụ thể, tìm hiểu nguyên nhân, đề xuất những biện pháp can thiệp phù hợp với đối tượng, với điều kiện kinh tế – xã hội ngay từ khâu thiết kế và có giám sát, theo dõi, đánh giá trong suốt quá trình. Dự án đề xuất các can thiệp để giải quyết căn cơ vấn đề  dựa trên việc xác định và phân tích nguyên nhân sâu xa của bất BĐG, những rào cản chính của phụ nữ DTTS sẽ góp phần thực hiện BĐG mang tính chiến lược, đồng thời giải quyết những vấn đề giới mà phụ nữ và cộng đồng DTTS đang gặp phải.

Hai là, các hoạt động trong Chương trình, cụ thể là nội dung Đề án 8 sẽ tác động thay đổi nhận thức, hành vi và sự vào cuộc của toàn xã hội, để  thúc đẩy bình và sự phát triển bền vững của vùng DTTS và miền núi. Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong tự quản và phát triển cộng đồng nhằm tạo cơ hội cho phụ nữ được nói tiếng nói đại diện cho giới mình, của dân tộc mình, đặc biệt được phát huy trình độ, năng lực, kinh nghiệm, thể hiện quan điểm trong quyết định các chính sách và giám sát việc thực hiện trên thực tế về các lĩnh vực khác nhau.

Ba là, việc triển khai xây dựng các mô hình nền tảng về phát triển kinh tế tại chỗ sẽ góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo, phát huy nội lực địa phương, phù hợp với trình độ và khả năng phụ nữ DTTS thúc đẩy phát triển kinh tế vùng DTTS đa dạng, bền vững. Sự tham gia của phụ nữ trong các mô hình sẽ khuyến khích tính tích cực, chủ động của phụ nữ khi được trực tiếp bàn bạc, thực hiện và hưởng lợi từ thành quả lao động. Phụ nữ và trẻ em được truyền thông, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ các chi phí sinh nở sẽ giảm bớt gánh nặng bệnh tật cũng như những chi phí phát sinh khi có người ốm, tăng hiệu suất lao động, đem lại những giá trị kinh tế lâu dài cho đồng bào DTTS.

Bốn là, kết quả của các hoạt động tích hợp giới, lồng ghép giới góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng miền, dân tộc và giới. Giảm các nguy cơ vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết, giảm thiểu tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn cho người dân tại cộng. Trẻ em gái được tiếp cận chương trình, được đào tạo kiến thức, bồi dưỡng kỹ năng sẽ có nhận thức đầy đủ về vị thế vai trò trong gia đình, xã hội, sẽ có bước chuẩn bị để trở thành người mẹ có kiến thức nuôi dạy con và tổ chức cuộc sống gia đình, người công dân tốt đóng góp cho sự phát triển bền vững của cộng đồng, dân tộc, đất nước.

Năm là, các tổ nhóm phụ nữ thực hiện các mô hình “thay đổi nếp nghĩ, cách làm” được duy trì bền vững tại cộng đồng là nền tảng để thu hút tập hợp quần chúng, gắn với giải quyết các vấn đề xã hội cấp thiết tại các thôn, bản đặc biệt khó khăn. Phụ nữ được nâng cao nhận thức, tham gia và làm chủ kinh tế sẽ làm thay đổi nhận thức và sự ghi nhận của cộng đồng về vai trò, năng lực của phụ nữ trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Tăng cường sự tham gia, giám sát của phụ nữ sẽ phát huy được nội lực, quyền tự quyết, tự lựa chọn và quản lý từ cộng đồng sẽ phát huy được thế mạnh văn hóa, phong tục tập quán và tăng cường sự gắn kết cộng đồng của người dân trong giám sát, phản biện và xây dựng chính sách. Phát huy được vai trò của phụ nữ trong gìn giữ và trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc góp phần giữ gìn và phát huy lợi thế của bản sắc văn hóa tốt đẹp dân tộc.

Sáu là, kết quả của hoạt động về giới và BĐG thuộc Chương trình giúp phụ nữ được tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng về quản lý, điều hành và các nội dung kiến thức khác là tiền đề để phát triển các nhân tố tích cực, ưu tú, góp phần tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo tại cơ sở. Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, người có uy tín tại cộng đồng tiếp tục được nâng cao nhận thức về giới nhằm góp phần truyền tải đến cộng đồng những kiến thức, quan niệm đúng đắn về BĐG, từ đó, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giảm thiểu định kiến giới và các thực hành văn hóa bất BĐG.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới.
3. Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030.
4. Quyết định 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự  phát triển bền vững.
5. Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025”.
6. Ủy ban Dân tộc. Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2019. Hà Nội, 2019.
Hoàng Thị Hạnh
Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc
TS. Lương Thị Thu Hằng
Ủy ban Dân tộc