Nâng cao hiệu quả đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập

(Quanlynhanuoc.vn) – Đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức là một trong những công việc có ý nghĩa quan trọng, là hoạt động mở đầu có vai trò quyết định trong công tác quản lý viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập; đồng thời, cũng là cơ sở để lựa chọn, bố trí sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm và thực hiện chính sách đối với viên chức. Nếu thực hiện một cách khách quan, khoa học, phù hợp, đúng pháp luật sẽ phát huy được tiềm năng của mỗi viên chức, ngược lại, khi  đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức không đúng sẽ gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định trong công tác bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Ảnh minh họa (internet(
Đặt vấn đề

Việc cung cấp các dịch vụ công bảo đảm chất lượng, hiệu quả đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, bên cạnh việc tuyển dụng, sử dụng đội ngũ viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập

(ĐVSNCL) cần phải thực hiện nghiêm túc việc đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với viên chức; xác định công tác đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức (ĐGXLCLVC) là một trong những nội dung quan trọng của quản lý nguồn nhân lực tại ĐVSNCL, là căn cứ để quản lý, sử dụng và áp dụng các chế độ, chính sách khác đối với viên chức, một lực lượng có ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện những hoạt động của Nhà nước và phát triển xã hội.

Một số quan niệm và quy định của pháp luật về đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập

Một số quan niệm về đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập

ĐGXLCLVC được hiểu là một hình thức (một loại hình) đánh giá nguồn nhân lực, thông qua việc đánh giá đối với từng nhân sự ở mỗi vị trí việc làm, khác với đánh giá công chức hoặc người lao động, quá trình

ĐGXLCLVC thường phải căn cứ vào quy định có “tính đặc thù” trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức.

ĐGXLCLVC là một hoạt động cụ thể để đánh giá con người làm việc tại ĐVSNCL nên đây là một công việc khó khăn, phức tạp. Công tác này được thực hiện trước hết bởi cá nhân viên chức tự đánh giá mình, tiếp đến là đơn vị trực tiếp sử dụng viên chức và sau cùng là đơn vị quản lý viên chức. Quy trình này nhằm bảo đảm “nguyên tắc tập trung, dân chủ”, bảo đảm tính thống nhất, khách quan, toàn diện, chính xác, công khai, minh bạch và cuối cùng là bảo đảm quyền, nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với những nội dung do mình tự đánh giá và thông qua tập thể nơi mình công tác đánh giá, tập thể lãnh đạo đơn vị và cơ quan đánh giá sau một năm thực hiện nhiệm vụ được giao. Đây là một công việc rất khó đối với các cơ quan có thẩm quyền quản lý, sử dụng viên chức, song nếu thực hiện tốt nó sẽ có ý nghĩa, tác động tích cực đến chất lượng, hiệu quả trong thực hiện công việc của viên chức, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Hiểu biết cán bộ – biết người, cố nhiên là khó. Tự biết mình cũng không phải là dễ”1.

ĐGXLCLVC cần phải được tiến hành thường xuyên, hằng năm để nhằm đánh giá, phân loại, làm rõ các nội dung cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của từng viên chức; kết quả ĐGXLCLVC là căn cứ để bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính sách đối với viên chức. Đồng thời, thông qua việc đánh giá đúng viên chức còn giúp viên chức nhận thấy khuyết điểm mà sửa chữa và phát huy ưu điểm của mình.

Quy định pháp luật về đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập

Kế thừa và phát triển những quy định pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, ngày 15/11/2010, tại kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Viên chức với nội dung quy định về viên chức; quyền, nghĩa vụ của viên chức; tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong ĐVSNCL.

Cùng với những quy định về các quyền, nghĩa vụ của viên chức tại ĐVSNCL, việc ĐGXLCLVC được Luật Viên chức năm 2010 quy định tại Mục 6 với các nội dung: mục đích của đánh giá viên chức để làm căn cứ tiếp tục bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chế độ, chính sách đối với viên chức (Điều 39 Luật Viên chức năm 2010); căn cứ đánh giá viên chức được thực hiện dựa trên: các cam kết trong hợp đồng làm việc đã ký kết; quy định về đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử của viên chức (Điều 40 Luật Viên chức năm 2010); việc đánh giá viên chức phải xem xét theo các nội dung: kết quả thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết; việc thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp; tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ Nhân dân, tinh thần hợp tác với đồng nghiệp và việc thực hiện quy tắc ứng xử của viên chức; việc thực hiện các nghĩa vụ khác của viên chức.

Đối với đánh giá viên chức quản lý còn phải được thực theo các nội dung: năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ; kết quả hoạt động của đơn vị được giao quản lý, phụ trách. Thời điểm đánh giá viên chức được thực hiện hằng năm; khi kết thúc thời gian tập sự; trước khi ký tiếp hợp đồng làm việc; thay đổi vị trí việc làm; xét khen thưởng, kỷ luật, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng (Điều 41 Luật Viên chức năm 2010). Về xếp loại viên chức, tùy theo các nội dung và tiêu chí đánh giá cụ thể đối với viên chức, việc xếp loại viên chức hằng năm được xếp thành 4 loại: hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hoàn thành tốt nhiệm vụ; hoàn thành nhiệm vụ và không hoàn thành nhiệm vụ (Điều 42 Luật Viên chức năm 2010). Đồng thời, Luật cũng quy định cụ thể về trách nhiệm đánh giá viên chức thuộc về người đứng đầu ĐVSNCL có trách nhiệm tổ chức việc ĐGXLCLVC thuộc thẩm quyền quản lý. Căn cứ vào điều kiện cụ thể, người đứng đầu ĐVSNCL thực hiện việc đánh giá, xếp loại hoặc phân công, phân cấp việc ĐGXLCLVC thuộc thẩm quyền quản lý. Người được giao thẩm quyền ĐGXLCLVC phải chịu trách nhiệm trước người đứng đầu ĐVSNCL về kết quả đánh giá, xếp loại. Người có thẩm quyền bổ nhiệm chịu trách nhiệm ĐGXLCLVC quản lý trong ĐVSNCL (Điều 43 Luật Viên chức năm 2010).

Thể chế hóa Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của ĐVSNCL, ngày 25/11/2019, tại kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức số 52/2019/QH14. Để các quy định mới của pháp luật cán bộ, công chức và viên chức nhanh chóng được thi hành thống nhất, hiệu quả trong đời sống xã hội, ngày 13/8/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2020/NĐ-CP về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức; nghị định này đã thể hiện sự phát triển và hoàn thiện thể chế về đánh giá, xếp loại cụ thể, chi tiết, như nguyên tắc ĐGXLVC; tiêu chí chung về ĐGXLVC (các tiêu chí này đã cụ thể hóa Luật Viên chức (sửa đổi năm 2019) về chính trị, tư tưởng; đạo đức, lối sống; tác phong, lề lối làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật; kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao)…

Với những quy định mới, thể hiện bước tiến bộ, phù hợp, tương đối thống nhất, chặt chẽ, đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, bảo đảm cho việc đánh giá, xếp loại khắc phục những hạn chế, bất cập trong hệ thống các quy định về ĐGXLCLVC trước đây. Đồng thời, trên cơ sở kế thừa những quy định pháp luật tiến bộ, hợp lý, tiếp tục tạo cơ chế cho việc ĐGXLCLVC tại ĐVSNCL đi vào nề nếp theo những chuẩn mực pháp lý cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong công tác bố trí, sắp xếp, sử dụng và quản lý viên chức trong tình hình mới.

Những hạn chế trong quá trình đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập

Một là, hiện nay vẫn còn một bộ phận viên chức (có những trường hợp có cả ĐVSNCL) chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò, ý nghĩa, tính chất… của công tác này; xem công tác ĐGXLCLVC chỉ mang tính thủ tục cần phải có hoặc thiếu sự kiểm tra, đôn đốc, giám sát chặt chẽ trong cơ quan, đơn vị. Đây là một trong những vấn đề tác động đến ý thức, tinh thần trách nhiệm trong quá trình mỗi viên chức tự mình đánh giá hằng năm; các tổ chức, đơn vị không có kế hoạch, thời gian chuẩn bị triển khai sớm nên việc thực hiện các quy định về ĐGXLCLVC còn mang tính “thời điểm” và “rất hình thức”, nhiều khi thiếu nghiêm túc, mang tính “bình quân chủ nghĩa”.

Hai là, mặc dù quy định pháp luật về viên chức được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng vẫn còn mang nặng tính “kế thừa” “sao chép” mà chưa có những quy định mang “tính đột phá” “thiếu tính đổi mới, sáng tạo, phù hợp” và chưa bảo đảm yêu cầu khách quan, toàn diện trong xây dựng pháp luật về ĐGXLCLVC tại ĐVSNCL. Nhiều quy định chỉ sửa đổi về thuật ngữ mà chưa chú trọng đến nội dung, chẳng hạn trong các nghị định nêu trên thuật ngữ về “phân loại” thay bằng “xếp loại” và  khi đã đánh giá, phân loại hay xếp loại ở các mức (hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ, không hoàn thành nhiệm vụ) đã thể hiện rõ căn cứ về chất lượng viên chức. Đồng thời, việc quy định về ĐGXLCLVC cần bảo đảm tính thống nhất với các văn bản pháp luật khác có liên quan đến viên chức, như: Luật Thi đua khen thưởng, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… Vì những quy định pháp luật này có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của viên chức và có quy định pháp luật (như Luật Thi đua khen thưởng) thường được áp dụng trong bình xét thi đua hằng năm đối với viên chức.

Ba là, mặc dù Luật Viên chức (sửa đổi năm 2019) có những quy định về nội dung đánh giá viên chức, Nghị định số 90/2020/NĐ-CP quy định về tiêu chí xếp loại viên chức còn khá chung chung, thiếu cụ thể và chưa gắn với đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức, nhất là đối với đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử. Vì đây là những yếu tố cũng rất quan trọng đối với một viên chức làm việc tại các ĐVSNCL. Trong thực tế, không ít viên chức khi đánh giá, xếp loại chất lượng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên khi bình xét khen thưởng đáp ứng theo phương thức “phiên ngang” danh hiệu được bình xét và tập thể đã “cảm tính” mà biểu quyết hoặc bỏ phiếu bình xét cho viên chức. Như vậy, vô hình chung tập thể đã vi phạm nguyên tắc dân chủ trong ĐGXLCLVC cũng như bình xét danh hiệu thi đua khen thưởng.

Bốn là, việc nhận thức không đúng, không đầy đủ về ĐGXLCLVC nên có nhiều viên chức (thậm chí cả viên chức quản lý) không nâng cao tinh thần thái độ, trách nhiệm trong quá trình đánh giá, nhận xét để xếp loại chất lượng viên chức; có những trường hợp viên chức không tự đánh giá, xếp loại chất lượng theo trình tự được pháp luật quy định mà còn có hiện tượng nhờ người khác làm hộ hoặc sao chép của người khác nên trong nội dung ĐGXLCLVC có những đơn vị trong cùng một cơ quan khá giống nhau. Tuy nhiên, vì tỷ lệ ở xếp loại chất lượng có quy định theo tỷ lệ phần trăm của tổng số viên chức nên đến nội dung xếp loại lại khác nhau. Điều này cho thấy tính hình thức, thiếu thực chất đã bộc lộ rõ ràng nhưng vẫn chậm được khắc phục.

Năm là, theo quy định thì việc ĐGXLCLVC phải bảo đảm nguyên tắc khách quan, công bằng, chính xác và việc sử dụng kết quả ĐGXLCLVC là căn cứ để bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, đánh giá và xếp loại chất lượng đảng viên và thực hiện các chính sách khác đối với cán bộ, viên chức  đôi khi chưa được thực hiện nghiêm túc, tác động không nhỏ đến yêu cầu, mục đích và nội dung của việc ĐGXLCLVC và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với viên chức.

Một số đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả đánh giá, xếp loại chất lượng viên chức  

Thứ nhất, để việc nhận xét, ĐGXLCLVC trong thời gian tới được chính xác, hạn chế sai sót, khắc phục kịp thời những bất cập phát sinh trong công tác này, từ đó phát hiện, sử dụng đúng người có đức, có tài, phát huy mọi tiềm năng của họ, đồng thời ngăn chặn, phòng ngừa, phát hiện kịp thời những sai phạm khi sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển… viên chức trong

ĐVSNCL, cần phải có nguyên tắc, quy trình, quy chế chặt chẽ bảo đảm cho công tác ĐGXLCLVC đạt độ chính xác cao, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi đặt ra hiện nay.

Thứ hai, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về tiêu chuẩn cán bộ, công chức, viên chức, trong đó đặc biệt coi trọng công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức. Tiêu chuẩn, điều kiện đánh giá cán bộ, công chức, viên chức là sự cụ thể hóa những yêu cầu khách quan của đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng thành những tiêu chí đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, tổ chức xã hội cần phải đáp ứng được. Đó là yếu tố khách quan, là thước đo tin cậy để đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của cán bộ, công chức và viên chức hiện nay.

Thứ ba, tiếp tục thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng về  cải cách nền hành chính, nhất là những quan điểm trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ rõ, trong đó có những quan điểm mang tính định hướng chính trị cao đối với đội ngũ viên chức tại ĐVSNCL, bảo đảm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ về cung cấp các dịch vụ sự nghiệp trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế… cho xã hội trong tình hình mới.

Thứ tư, đổi mới phương thức ĐGXLCLVC bảo đảm “thực chất” có cơ chế để kiểm soát công tác này nhằm khắc phục tình trạng ĐGXLCLVC mang tính hình thức đã và đang tồn tại. Do đó, cần phải tiếp tục coi trọng nguyên tắc “khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, công khai, minh bạch, công tâm, vô tư” trong ĐGXLCLVC; khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập từ việc phiến diện, chủ quan, cảm tính, không được định kiến, nhìn sự phát triển của cán bộ, viên chức.

Thứ năm, tiếp tục rà soát những quy định về ĐGXLCLVC trong  Luật Viên chức (sửa đổi năm 2019), Nghị định số 90/2020/NĐ-CP và các quy định pháp luật khác có liên quan đến viên chức; bảo đảm sự thống nhất, không trùng lặp, mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống văn bản pháp luật để việc thi hành được thống nhất, kịp thời và hiệu quả. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của khoa học – kỹ thuật, công nghệ thông tin vào công tác ĐGXLCLVC, xây dựng cơ sở dữ liệu về viên chức nói chung và về ĐGXLCLVC nói riêng để khai thác sử dụng các thông tin, dữ liệu này một cách khoa học, hợp lý, hiệu quả hơn.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 317.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Hiến pháp năm 2013.
3. Luật Viên chức năm 2010.
4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019.
5. Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức.  
6. Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức.
7. Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 của Chính phủ về đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức.
8. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998.
9. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam. H. NXB Công an nhân dân, 2020.
TS. Tạ Quang Ngọc
Trường Đại học Luật Hà Nội