(Quanlynhanuoc.vn) – Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái; là vấn đề có tính chiến lược trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự nghiệp cách mạng của nước ta. Sau gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành Nông nghiệp nước ta luôn thể hiện tốt vai trò là trụ đỡ, đồng thời là ngành có đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động mạnh mẽ, đặt nông nghiệp Việt Nam trước những thời cơ và thách thức mới. Để xây dựng một nền nông nghiệp Việt Nam phát triển toàn diện theo hướng hiện đại thì phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp (NNLNN) chất lượng cao (CLC) là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, nhân tố then chốt tạo ra những đột phá trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Nguồn nhân lực (NNL) CLC là bộ phận ưu tú nhất trong NNL của đất nước, lực lượng giữ vai trò nòng cốt quyết định đến trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực nông nghiệp, NNLNN CLC với những người lao động có phẩm chất và thể lực tốt, có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật nông nghiệp cao, kỹ năng lao động giỏi, nhạy bén, sáng tạo, thích ứng nhanh và làm chủ những thành tựu của khoa học và công nghệ nông nghiệp hiện đại là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay. Phát triển NNLNN CLC để bảo đảm cho sự thành công của công cuộc tái cơ cấu ngành Nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, đáp ứng yêu cầu thị trường lao động trong nước và quốc tế, là bước đi mang tính mở đường để xây dựng một nền nông nghiệp công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn và phát triển bền vững.
Thực tế cho thấy, NNLNN CLC ở nước ta những năm gần đây đã có bước phát triển đáng kể. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo nghề ở khu vực nông thôn tăng từ 8,5% năm 2010 lên 16,3% năm 2020. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản đã qua đào tạo tăng từ 4,3% năm 2015 lên 4,6% năm 20201. Năng suất lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản tăng từ 30,8 triệu/lao động năm 2015 lên 52,7 triệu/lao động năm 20202. Sự phát triển của NNLNN CLC đã góp phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp, thực hiện tốt vai trò là “trụ đỡ” của nền kinh tế đất nước, nhất là trong thời điểm đại dịch Covid-19 bùng nổ và diễn biến phức tạp.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của thời kỳ mới, của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển NNLNN CLC ở nước ta còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập cả về nhận thức, trách nhiệm, nội dung và hình thức biện pháp thực hiện. Công tác tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD), sử dụng, đãi ngộ đối với NNLNN CLC còn lãng phí, hiệu quả chưa cao.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa X) đặt ra mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ đào tạo nghề nông thôn đạt trên 50%. Tuy nhiên, đến hết năm 2020, con số này mới đạt 44,5%3 (tính tất cả các loại hình đào tạo). Nếu tính riêng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo là 12,57 triệu người, chiếm 89,97% tổng số lao động4. Chất lượng đào tạo nghề thấp chưa tạo ra bước đột phá để tăng năng suất lao động trong nội ngành, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới ở nước ta thời gian qua.
Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, tài nguyên, công nghệ, NNL CLC giữa các nước ngày càng quyết liệt; xu hướng tăng cường sử dụng hàng rào kỹ thuật và các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước gia tăng; đại dịch Covid-19 còn có thể kéo dài và lan rộng ra các thị trường xuất khẩu quan trọng của nông, lâm, thủy sản Việt Nam, như: Trung Quốc, EU, Mỹ buộc các nước này áp dụng các biện pháp phòng dịch, tác động mạnh mẽ đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu. Bối cảnh đó đặt ra những thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của ngành Nông nghiệp nước ta.
Để thích ứng và phát triển trong điều kiện mới, ngành Nông nghiệp Việt Nam cần hướng đến một nền nông nghiệp thông minh, nông nghiệp tri thức, ứng dụng công nghệ cao để sử dụng hiệu quả tài nguyên, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp… Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị”5. Để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại và nông thôn văn minh cần có sự hội tụ của nhiều yếu tố, trong đó phát triển NNLNN CLC là vấn đề tiên quyết nhất. Vì vậy, muốn phát triển NNLNN CLC cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, các tầng lớp nhân dân đối với phát triển NNLNN CLC.
NNLNN CLC là lực lượng nòng cốt, quyết định đến năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Phát triển NNLNN CLC là giải pháp then chốt, mang tính quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tạo ra những đột phá trong sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Đây là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Theo đó, cấp ủy, chính quyền và các tầng lớp nhân dân cần nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của NNLNN CLC, thấy rõ được sự cần thiết phải phát triển NNL CLC này ở Việt Nam hiện nay. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, từng lực lượng tham gia để phát huy vai trò, trách nhiệm đối với phát triển NNLNN CLC, khắc phục hiện tượng thờ ơ, thiếu trách nhiệm hoặc đùn đẩy trách nhiệm.
Để thực hiện được điều này, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phát huy năng lực của cấp ủy, chính quyền địa phương và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về phát triển NNLNN CLC. Đồng thời, có cơ chế, quy định rõ yêu cầu về nhận thức, trách nhiệm đối với các tổ chức, các lực lượng; kiên quyết đấu tranh, khắc phục những biểu hiện lệch lạc về nhận thức, trách nhiệm trong phát triển NNLNN CLC ở nước ta hiện nay.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện chiến lược, quy hoạch phát triển NNLNN CLC đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực CLC là cơ sở và căn cứ pháp lý quan trọng để phát triển NNLNN CLC. Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta mới có chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực nói chung mà chưa xây dựng được chiến lược, quy hoạch phát triển NNL CLC, nhất là NNLNN CLC. Do đó, chưa có cơ sở để xây dựng chính sách phát triển NNLNN CLC một cách thống nhất và đồng bộ. Thực hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước về tiếp tục đẩy mạnh phát triển NNL CLC đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế, vấn đề quan trọng trước tiên là phải nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện chiến lược, quy hoạch phát triển NNL CLC, trong đó có NNLNN CLC. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phối hợp cùng các bộ, ngành liên quan đánh giá hiện trạng NNLNN CLC xác định những thuận lợi, khó khăn, tính đặc thù của phát triển NNLNN CLC; trên cơ sở đó, dự báo nhu cầu phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNLNN CLC phù hợp. Đây là cơ sở để xây dựng, hoàn thiện quy hoạch tổng thể, xác định quan điểm, mục tiêu, phương hướng và giải pháp phát triển NNLNN CLC đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong thời gian tới.
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng ĐTBD, chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ đối với NNLNN CLC.
Đây là giải pháp then chốt có ý nghĩa quyết định đến phát triển NNLNN CLC ở nước ta hiện nay. Để phát triển NNL CLC nói chung, NNLNN CLC nói riêng, vai trò của giáo dục và đào tạo được đặt lên hàng đầu được Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Từ đó, cần quan tâm đổi mới đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung và phương pháp ĐTBD NNLNN CLC. Trên cơ sở tham khảo các chương trình tiên tiến quốc tế, các ý kiến phản hồi từ nhà tuyển dụng lao động và chuẩn đầu ra của ngành, việc đổi mới chương trình ĐTBD NNLNN CLC phải thiết thực, đáp ứng nhu cầu của các cơ quan, doanh nghiệp, đặc biệt phải phù hợp với đặc thù và nhiệm vụ phát triển nông nghiệp ở từng địa phương, bảo đảm về kiến thức, kỹ năng, tính tự chủ, trách nhiệm và hội nhập cao.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, nội dung ĐTBD phải không ngừng được bổ sung, cập nhật theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết với thực hành, tăng lượng thời gian thực hành, thực tập nghề nghiệp tại các cơ sở sản xuất – kinh doanh nông nghiệp để người học có cơ hội tiếp cận và làm chủ các trang thiết bị, công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tăng khả năng thích ứng sau khi tốt nghiệp ra trường. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phải chuyển mạnh từ truyền thụ kiến thức sang bồi dưỡng năng lực cho người học, đặc biệt là năng lực tự học, tự sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm để giải quyết vấn đề một cách tối ưu nhất.
Để hội nhập sâu rộng, cần đẩy mạnh các hoạt động liên kết, hợp tác với các đơn vị sử dụng lao động, các doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh nông nghiệp, các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, bên cạnh đó, có cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong đào tạo NNL CLC trong nông nghiệp, giúp người học gắn giữa lý thuyết với thực hành, có cơ hội cọ sát thực tế, tiếp cận với hệ thống máy móc hiện đại, quy trình sản xuất tiên tiến, qua đó, phát triển toàn diện cả về phẩm chất, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Gắn nâng cao chất lượng ĐTBD với cơ chế thu hút, sử dụng và đãi ngộ thỏa đáng đối với NNLNN CLC. Thực tế cho thấy, dù chất lượng ĐTBD có tốt đến mấy nhưng nếu không có cơ chế thu hút, sử dụng, đãi ngộ hợp lý thì NNLNN CLC cũng không thể phát triển vững chắc và dẫn đến hiện tượng “chảy máu chất xám”. Vì vậy, cần có cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ cụ thể, thiết thực, phù hợp, tạo môi trường thuận lợi để thu hút NNL CLC vào làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.
Bốn là, tăng cường ứng dụng khoa học -công nghệ vào sản xuất, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển khoa học – công nghệ với phát triển NNLNN CLC.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp là nền tảng và động lực then chốt để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và giá trị gia tăng, phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững. Đồng thời, tạo ra những cơ hội và điều kiện thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển NNLNN CLC.
Các bộ, ngành và các địa phương cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù đối với phát triển khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp. Huy động mọi nguồn lực, tăng nguồn kinh phí đầu tư, khuyến khích các tổ chức, các thành phần kinh tế, nhất là các trung tâm nghiên cứu và doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp. Tập trung phát triển đội ngũ chuyên gia về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đội ngũ những nhà quản lý có kỹ năng quản trị kinh doanh và thị trường nông sản. Hỗ trợ ĐTBD, nâng cao trình độ cho đội ngũ kỹ thuật viên phụ trách nông nghiệp ở các đơn vị cơ sở và lao động trực tiếp trong nông nghiệp. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, các khóa đào tạo ngắn để kết nối các chuyên gia, các nhà khoa học, trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ nông dân ứng dụng và chuyển giao khoa học – kỹ thuật trong quá trình sản xuất.
Tăng cường các chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp. Đẩy mạnh liên kết, hợp tác về khoa học – công nghệ nông nghiệp giữa các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ có cơ hội trao đổi, học tập kinh nghiệm, nâng cao năng lực nghiên cứu và đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất.