(Quanlynhanuoc.vn) – Theo quy hoạch phát triển đến năm 2040, thành phố Thủ Đức trở thành đô thị loại I trực thuộc TP. Hồ Chí Minh phát triển theo mô hình đô thị sáng tạo, tương tác cao, là trung tâm phía Đông của TP. Hồ Chí Minh về kinh tế, khoa học – kỹ thuật và công nghệ, văn hóa, giáo dục – đào tạo.Việc thành lập thành phố Thủ Đức được kỳ vọng sẽ giúp khu vực phía Đông của TP. Hồ Chí Minh sớm trở thành “hạt nhân” tăng trưởng mới thúc đẩy kinh tế TP. Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phát triển bền vững. Đây là mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đầu tiên của cả nước.
Thành phố Thủ Đức – thành phố của những kỳ vọng
Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 ngày 09/12/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TP. Hồ Chí Minh trên cơ sở nhập toàn bộ 49,79 km2 diện tích tự nhiên và 171.311 người của Quận 2; 113,97 km2 diện tích tự nhiên và 310.107 người của Quận 9 và 47,80 km2 diện tích tự nhiên, 532.377 người của quận Thủ Đức. Sau khi thành lập, thành phố Thủ Đức có 211,56 km2 diện tích tự nhiên và với quy mô dân số là 1.013.795 người1.
Theo quy hoạch phát triển đến năm 2040, thành phố Thủ Đức trở thành đô thị loại I trực thuộc TP. Hồ Chí Minh phát triển theo mô hình đô thị sáng tạo, tương tác cao, là trung tâm phía Đông của TP. Hồ Chí Minh về kinh tế, khoa học – kỹ thuật và công nghệ, văn hóa, giáo dục – đào tạo. Thành phố Thủ Đức là trung tâm đổi mới, sáng tạo dựa trên nền tảng kinh tế tri thức, khoa học – công nghệ và hợp tác phát triển; tập trung vào các lĩnh vực giáo dục – đào tạo bậc cao, nghiên cứu và sản xuất công nghệ cao, tài chính và thương mại – dịch vụ…; đồng thời, có vai trò là hạt nhân trong đổi mới, sáng tạo, phát triển hạ tầng số của thành phố.
Việc thành lập thành phố Thủ Đức được kỳ vọng sẽ giúp khu vực phía Đông của TP. Hồ Chí Minh sớm trở thành “hạt nhân” tăng trưởng mới thúc đẩy kinh tế TP. Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phát triển bền vững. Đây là mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đầu tiên của cả nước. Dự kiến trong tương lai, thành phố sẽ đóng góp đến 30% GRDP của TP. Hồ Chí Minh và chiếm khoảng 7% GDP cả nước… Đồng thời, kết nối, tạo tính tương tác giữa các khu vực làm đòn bẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, trong đó có sự kết nối ba khu vực trọng điểm: khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh; Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh và khu Trung tâm Đô thị mới Thủ Thiêm. Thành lập thành phố Thủ Đức được xem là tiền đề cho giai đoạn phát triển mới, chủ động tham gia và khai thác hiệu quả các cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư2.
Tuy nhiên, thành phố Thủ Đức là thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đầu tiên của cả nước được thành lập trong điều kiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách chưa hoàn thiện. Vì vậy, đang gặp phải một số khó khăn vướng mắc như sau:
Một là, về thẩm quyền của chính quyền thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Việc thành lập thành phố Thủ Đức, không phải sáp nhập cơ học 3 quận mà sáp nhập lại để hình thành tổ chức với yếu tố bên trong mới, từ đó, phát triển cao hơn3. Thủ Đức là “đơn vị hành chính tương đương” quận, huyện, thị xã của thành phố trực thuộc trung ương4; quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương ở thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương5; quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố thuộc thành phố; Ủy ban nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố thuộc thành phố6. Tuy nhiên, theo tác giả, các quy định này còn chưa bảo đảm tính toàn diện, cụ thể về một mô hình chính quyền địa phương mới. Đặc biệt, ít có sự khác biệt về thẩm quyền của chính quyền thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (cụ thể là thành phố Thủ Đức) so với chính quyền địa phương quận, huyện thuộc thành phố trực thuộc trung ương và chính quyền địa phương huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Với quy mô thực tế và sự kỳ vọng đối với sự phát triển của thành phố Thủ Đức thực sự trở thành một điểm nghẽn trong quản lý, phát triển bền vững thành phố Thủ Đức giai đoạn hiện nay.
Hai là, về tài chính – ngân sách, thu hút đầu tư.
Về quản lý tài chính ngân sách, Hội đồng nhân dân thành phố Thủ Đức có thẩm quyền quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu – chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, trong đó bao gồm dự toán ngân sách của phường trực thuộc; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Theo Nghị định số 33/2021/NĐ-CP, thành phố Thủ Đức thực hiện cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương theo quy định. Sau khi ngân sách thành phố Thủ Đức bảo đảm đủ nguồn cải cách tiền lương và thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho thời kỳ ổn định ngân sách theo quy định của cấp có thẩm quyền, HĐND thành phố Thủ Đức được quyết định sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư của ngân sách thành phố Thủ Đức để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách thành phố.
Bên cạnh đó, theo quy định của Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội thì HĐND thành phố Thủ Đức có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án đầu tư công nhóm B, nhóm C sử dụng vốn ngân sách phường trực thuộc theo quy định của Luật Đầu tư công; tổ chức thực hiện chương trình, dự án đầu tư công theo phân cấp quản lý; phê duyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm của Ủy ban nhân dân phường trực thuộc.
Với những quy định trên, thẩm quyền quyết định của chính quyền thành phố Thủ Đức trong quản lý tài chính – ngân sách, quản lý đầu tư – hai lĩnh vực quan trọng có thể tạo ra những đột phá trong phát triển thành phố không có nhiều sự khác biệt.
Ba là, về phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo (AI).
Thành phố Thủ Đức được thành lập với kỳ vọng trở thành khu đô thị sáng tạo, tương tác cao và trở thành một “cực” tăng trưởng mới thúc đẩy kinh tế TP. Hồ Chí Minh phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số. Tuy nhiên, hệ thống thể chế, chính sách (TCCS) về phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, AI – những thành tố cốt lõi của đô thị sáng tạo, tương tác cao chưa được hoàn thiện từ cấp độ khung TCCS đến các cơ chế, quy định về phát triển ở từng lĩnh vực cụ thể.
Khung thể chế, chính sách “sandbox” và sự cần thiết cho mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), cơ chế thử nghiệm là một môi trường thử nghiệm trực tiếp, có giới hạn thời gian, được kiểm soát, có thể có các miễn trừ quy định pháp lý theo ý định của cơ quan quản lý7.
Theo Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang Đức thì, cơ chế thử nghiệm là một khuôn khổ để thử nghiệm đổi mới sáng tạo và quy định pháp lý, với 3 yếu tố đặc trưng: (1) Cơ chế thử nghiệm là các khu vực thử nghiệm được thiết lập trong một thời gian giới hạn, trong một khu vực hạn chế, trong đó, các công nghệ và môi trường kinh doanh đổi mới sáng tạo có thể được thử nghiệm trong đời sống thực; (2) Cơ chế thử nghiệm tận dụng sự “thả nổi” quy định; (3) Cơ chế thử nghiệm dẫn đến “sự quan tâm đến việc khám phá quy định chính sách”8.
Khung pháp lý thí điểm – “regulatory sandbox” là một cách tiếp cận mới và khá linh hoạt trong kỹ thuật lập pháp, cho phép thử nghiệm trực tiếp, giới hạn thời gian của các đổi mới dưới sự giám sát điều chỉnh. Khung TCCS thí điểm (còn gọi là khung TCCS thử nghiệm) nhằm tạo ra một không gian thuận lợi với khung TCCS riêng (nằm ngoài hoặc vượt khung TCCS hiện hành) để tiến hành thử nghiệm những khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới; những định hướng phát triển, cơ chế quản lý mới9.
Xây dựng chính sách, pháp luật theo khung TCCS thí điểm là thể hiện bước chuyển trong tư duy quản trị của Nhà nước. Tuy nhiên, phương thức quản lý này không phù hợp trong bối cảnh đầy biến động, thay đổi nhanh, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư có nhiều hoạt động kinh tế – xã hội diễn ra nhanh, phức tạp, phi truyền thống. Do đó, bên cạnh phương thức quản lý truyền thống, các nhà nước đã tiếp cận và áp dụng mô hình sandbox – cái gì không biết quản thì không quản, cho tự phát triển trong một không gian, thời gian nhất định, để bộc lộ rõ bản chất, trên cơ sở đó, Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách quản lý, tổ chức phát triển.
Dưới góc độ lý luận, thành phố Thủ Đức là thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đầu tiên của Việt Nam trong bối cảnh chưa có khung TCCS hoàn thiện cho mô hình này. Việc hoàn thiện khung TCCS cho mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương cần thiết và cấp bách.
Bên cạnh đó, mỗi đô thị được xây dựng theo mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đều hướng đến thực hiện sứ mệnh và các mục tiêu cụ thể. Do đó, việc vận dụng khung TCCS thử nghiệm trong xây dựng cơ chế, chính sách phát triển thành phố Thủ Đức nói riêng và mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương nói chung là yếu tố cần thiết để các đô thị này chủ động trong quản lý, phát triển bền vững.
Một số giải pháp khuyến nghị
Một là, hoàn thiện khung TCCS cho mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; xác định khung pháp lý cho phép xây dựng và ban hành thể chế, cơ chế, chính sách cho mô hình này.
Hiện nay, khung TCCS về mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương chưa rõ ràng, hoàn thiện. Do đó, hoàn thiện khung TCCS cho mô hình này là giải pháp quan trọng nhất, có tính cấp thiết đối với thành phố Thủ Đức nói riêng và các thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (được thành lập trong tương lai) nói chung.
Khung TCCS về mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương cần tập trung giải quyết một số “điểm nghẽn” hiện nay, đặc biệt là thẩm quyền trong quản lý, tổ chức phát triển của chính quyền thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Đồng thời, cần xác định khung TCCS thí điểm. Bên cạnh đó, TCCS các ngành, lĩnh vực cũng cần được xem xét, hoàn thiện để tạo hành lang pháp lý, bảo đảm phát triển bền vững trong bối cảnh, điều kiện phát triển mới.
Để thực hiện giải pháp này, các cơ quan có thẩm quyền cần tổ chức nghiên cứu một cách có hệ thống về sửa đổi Luật Tổ chức chính quyền địa phương và quy định về chính quyền địa phương trong Hiến pháp. Vì vậy, trong thời gian này, cần có văn bản quy phạm pháp luật dưới luật chứa đựng các cơ chế, chính sách thí điểm cho thành phố Thủ Đức. Văn bản này cũng cần tạo khung pháp lý cho phép chính quyền thành phố Thủ Đức, chính quyền TP. Hồ Chí Minh quy định các cơ chế, chính sách thí điểm, thử nghiệm để quản lý, phát triển thành phố Thủ Đức.
Hai là, phát huy hiệu quả hoạt động tham vấn các bên liên quan, đặc biệt là các tổ chức nghiên cứu, các chuyên gia của từng lĩnh vực trong quá trình xây dựng TCCS thí điểm.
Khung TCCS thí điểm nhằm tạo ra một không gian thuận lợi với khung TCCS riêng để tiến hành thử nghiệm khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới; những định hướng phát triển, cơ chế quản lý mới, phù hợp với mục tiêu, sứ mệnh của thành phố Thủ Đức. Tuy nhiên, việc xây dựng khung TCCS thí điểm ở Việt Nam còn khá mới, hơn nữa, đây cũng là mô hình mới và trong bối cảnh, điều kiện mới với nhiều vấn đề phức tạp, phi truyền thống. Do vậy, để giải quyết vấn đề thực tiễn này, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành liên quan và chính quyền TP. Hồ Chí Minh cần phát huy vai trò tham vấn của các bên có liên quan trong việc ban hành hoặc đề nghị ban hành khung TTCS thí điểm, thử nghiệm cũng như các cơ chế, chính sách riêng trong từng lĩnh vực. Trong quá trình tham vấn, cần đặc biệt chú ý phát huy vai trò của các tổ chức nghiên cứu, tổ chức tư vấn và đội ngũ chuyên gia trong và ngoài nước.
Ba là, kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng khung TCCS thí điểm cho mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Trên thế giới đã có nhiều quốc gia tương đối thành công trong xây dựng và phát triển các đô thị sáng tạo, như: Đan Mạch, Ca-na-đa, Hàn Quốc, Trung Quốc… Việc trao đổi kinh nghiệm quốc tế kết hợp với nghiên cứu điều kiện TCCS của Việt Nam, thực tiễn của thành phố Thủ Đức để hoạch định khung TCCS về mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có ý nghĩa quan trọng. Một số kinh nghiệm của các nước thành công với mô hình này có thể vận dụng vào điều kiện Việt Nam như cơ chế khuyến khích khu vực ngoài nhà nước tham gia vào quá trình quản lý, hoạch định chính sách của chính quyền với nhiều phương thức linh hoạt, hiệu quả; cơ chế để gắn kết trách nhiệm giữa chính quyền với cộng đồng dân cư, doanh nghiệp trong tổ chức, quản lý các hoạt động phát triển đô thị…
Đối với thành phố Thủ Đức, với mục tiêu trở thành khu đô thị sáng tạo, tương tác cao, bên cạnh việc nghiên cứu, học hỏi xây dựng khung TCCS chung cho mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan trung ương và chính quyền TP. Hồ Chí Minh (nếu được phân cấp quy định cơ chế, chính sách thí điểm cho thành phố Thủ Đức) cần quan tâm hơn nữa để thành phố phát triển và đi vào ổn định.