(Quanlynhanuoc.vn) – Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã được tỉnh Hà Nam chú trọng từ rất sớm. Cụ thể, căn cứ Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam đã ban hành Quyết định số 26/2010/QĐ-UBND ngày 26/8/2010 và Quyết định số 12/2011/QĐ-UBND ngày 20/5/2011 quy định mức hỗ trợ kinh phí dạy nghề cho LĐNT tỉnh Hà Nam giai đoạn 2010 – 2015. Bên cạnh đó, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1590/KH-UBND ngày 11/11/2011 và Kế hoạch số 1448/KH-UBND ngày 05/7/2016 về triển khai thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Hà Nam đến năm 2020”.
Việc thực hiện các chính sách về đào tạo nghề (ĐTN) cho lao động nông thôn (LĐNT) tỉnh Hà Nam đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, như: việc thực hiện Đề án chủ yếu dựa vào ngân sách trung ương, ngân sách của tỉnh mà chưa thực hiện được xã hội hóa; sự tham gia của doanh nghiệp (DN) còn hạn chế; đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo còn thiếu… do vậy, hiệu quả công tác ĐTN còn chưa cao.
Thực trạng lực lượng lao động và lao động nông thôn tỉnh Hà Nam
Những năm qua, kinh tế – xã hội của tỉnh Hà Nam đạt được nhiều thành tựu khả quan. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2020 (theo giá so sánh 2010) ước đạt 38.083,5 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2019. Đây là mức tăng thấp nhất so với các năm trước (so với cùng kỳ năm 2019 tăng 12%; 2018 tăng 11,9%; 2017 tăng 10,8%; 2016 tăng 12,6%), tuy nhiên, đây vẫn là mức tăng trưởng cao thứ 3 trong khu vực đồng bằng sông Hồng, đứng thứ 6 toàn quốc1.
Góp phần vào những kết quả đã đạt được phải kể đến thế mạnh về lực lượng lao động đang trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” của tỉnh. Năm 2020, dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh là 478.523 người, chiếm 55,52% tổng dân số, mang lại cơ hội lớn để tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững của tỉnh2. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc so với tổng dân số của Hà Nam còn thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước, tuy cao hơn tỷ lệ chung của các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ nhưng vẫn thấp hơn đáng kể các tỉnh lân cận, như: Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Từ đó cho thấy, cơ cấu “dân số vàng” không chỉ là thế mạnh riêng của tỉnh Hà Nam. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo đều ở mức thấp hơn mặt bằng chung của cả nước và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Năm 2020, chỉ 22,05% tổng số người từ 15 tuổi trở lên đang tham gia lao động được đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ3. Đây có thể nói là điểm trừ trong cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư, cần khắc phục để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Hà Nam trong giai đoạn tới.
Thời gian qua, lực lượng lao động thuộc khu vực nông thôn đã có xu hướng giảm đi và lao động khu vực thành thị đã tăng lên đáng kể, tuy nhiên, đến năm 2020 vẫn còn 74,61% lực lượng lao động tập trung ở khu vực nông thôn4. Điều này cho thấy, LĐNT vẫn là lực lượng lao động chính, là đội quân chủ lực trong xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Mặc dù LĐNT chiếm tỷ lệ lớn nhưng số lượng LĐNT đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất ít. Tỷ lệ này có tăng lên nhưng mức tăng hằng năm không đáng kể. Năm 2020, tỷ lệ LĐNT đã qua đào tạo mới chỉ đạt 16,1%5. Để phát huy hơn nữa tiềm năng của LĐNT, đòi hỏi tỉnh Hà Nam cần có những giải pháp hoàn thiện chính sách ĐTN cho LĐNT nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động, tạo lợi thế cạnh tranh, thu hút đầu tư, tạo động lực cho phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn tới.
Một số giải pháp đối với đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Hà Nam
Thứ nhất, tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức về học nghề.
Tăng cường tuyên truyền về tầm quan trọng của lực lượng lao động dồi dào, có tay nghề trình độ cao để thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Việc hạn chế về chất lượng lao động còn kéo theo các hệ lụy khác như làm gia tăng cách biệt giữa DN trong nước và DN nước ngoài, do không đủ nguồn lực lao động, các DN này sẽ không liên kết với DN trong nước. Đối với một tỉnh có diện tích nhỏ, hạn chế về tài nguyên thiên nhiên như Hà Nam, việc phát huy, khai thác tiềm năng nguồn lực con người cần phải được coi trọng, nêu cao hơn nữa. Cần coi việc đào tạo, trang bị kiến thức nghề nghiệp cho lực lượng lao động nói chung và LĐNT nói riêng là yêu cầu cấp thiết để hình thành lực lượng lao động dồi dào về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đáp ứng yêu cầu trong nhiều lĩnh vực từ nông nghiệp cho đến các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Trong thời đại công nghiệp hóa nông nghiệp như hiện nay, người nông dân đã trở thành những “công nhân nông nghiệp”. Việc nắm vững các kỹ năng trồng trọt, chăn nuôi tiên tiến, sử dụng, vận hành thành thạo kỹ thuật và máy móc nông nghiệp hiện đại đang trở thành yêu cầu phổ biến. Tăng cường tuyên truyền những lợi ích thiết thực của việc học nghề nhằm thay đổi nhận thức của LĐNT về ĐTN để người lao động (NLĐ) tự nguyện, chủ động tham gia đào tạo, đào tạo lại, nhất là với đối tượng học sinh, thanh niên sắp bước vào độ tuổi lao động. Đồng thời, tạo tâm lý coi trọng học nghề cho các bậc phụ huynh, cho cộng đồng, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai, thực hiện các chính sách về ĐTN cho LĐNT.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách đối với người học nghề.
Mở rộng, bổ sung các đối tượng được nhận hỗ trợ học nghề từ ngân sách nhà nước để tránh bỏ sót các đối tượng có nhu cầu học nghề. Không chỉ chú trọng đầu tư, hỗ trợ lực lượng lao động trẻ, còn cần phải mở rộng ra các đối tượng là hộ nông thôn mới thoát nghèo, đối tượng quá tuổi lao động nhưng vẫn có khả năng lao động và có nhu cầu học nghề, đối tượng muốn chuyển đổi nghề… Cần có chính sách miễn giảm học phí, cho vay học phí đối với người học nghề, nhất là đối với các ngành nghề phù hợp với định hướng quy hoạch, phát triển của tỉnh, tăng định mức hỗ trợ học nghề đối với các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, gia đình có công với cách mạng… để tạo cơ hội cho NLĐ tham gia học nghề.
Thứ ba, hoàn thiện chính sách đối với cơ sở dạy nghề.
Cần nghiên cứu, xây dựng các chính sách tạo điều kiện cho DN, tổ chức, cá nhân thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp; khuyến khích huy động sự tham gia của DN trong ĐTN; khuyến khích DN đóng góp kinh phí đào tạo khi tiếp nhận NLĐ đã qua đào tạo. Quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách được đầu tư, hỗ trợ. Từng bước thực hiện tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo theo lộ trình; thực hiện chuyển từ cơ chế cấp kinh phí theo dự toán cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập sang cơ chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý; thực hiện tốt các chính sách đối với nhà giáo; huy động các nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật, nghệ nhân,… tham gia giảng dạy trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Phối hợp cùng DN xây dựng và ban hành chương trình, giáo trình đào tạo trên cơ sở tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia và yêu cầu của thị trường lao động. Thường xuyên cập nhật kỹ thuật, công nghệ mới, tập trung xây dựng chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề trình độ sơ cấp và dạy nghề dưới 3 tháng đáp ứng yêu cầu đào tạo. Đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất, thiết bị theo ngành nghề và trình độ đào tạo, bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định. Chú trọng đổi mới chương trình đào tạo theo chuẩn năng lực, chuẩn đầu ra, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng, lấy nhu cầu tuyển dụng làm căn cứ để xây dựng các khóa ĐTN. Thiết kế chương trình linh hoạt và đa dạng để vừa đáp ứng nhu cầu học nghề chính quy tập trung của lao động trẻ mới gia nhập lực lượng lao động, vừa đáp ứng nhu cầu học nghề của đối tượng chuyển đổi nghề. Quản lý quá trình đào tạo và chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp; thường xuyên thực hiện tự đánh giá và mời các trung tâm kiểm định tiến hành đánh giá độc lập theo tiêu chuẩn quốc gia.
Hằng năm có kế hoạch khảo sát thị trường lao động, nắm bắt kịp thời thông tin lao động theo từng ngành nghề để có cơ sở tư vấn, định hướng kịp thời cho NLĐ xác định chọn đúng nghề để học hoặc tự tạo được việc làm ổn định, tránh tình trạng NLĐ sau khi đào tạo không có việc làm phù hợp gây lãng phí cho Nhà nước cũng như bản thân NLĐ. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, dự báo nguồn nhân lực của tỉnh và cả nước để xây dựng, triển khai kế hoạch ĐTN gắn với giải quyết việc làm; thành lập bộ phận quan hệ DN tại các cơ sở đào tạo để nắm bắt nhu cầu, giới thiệu việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Thứ tư, huy động các chuyên gia giỏi tại các DN tham gia xây dựng chương trình đào tạo.
Các chuyên gia này sẽ trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn thực hành, thực tập cho học sinh, sinh viên; tham gia đánh giá năng lực, kỹ năng nghề cũng như thái độ học sinh, sinh viên. Phối hợp với các huyện, xã trên địa bàn và các doanh nghiệp làm tốt công tác tuyên truyền, tư vấn học nghề; tổ chức các lớp ĐTN phù hợp với nhu cầu của NLĐ; sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, kinh tế – xã hội khu vực nông thôn và nhu cầu tuyển dụng của DN. Đa dạng các hình thức, phương pháp ĐTN theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các trình độ, phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện lao động và tập quán dân cư ở địa phương. Không chỉ ĐTN trong các trường nghề, trung tâm dạy nghề mà còn tổ chức dạy nghề trên các phương tiện thông tin đại chúng, dạy nghề lưu động, dạy nghề tại chỗ (trên đồng ruộng, trang trại), dạy nghề theo hình thức kèm cặp, cầm tay chỉ việc, truyền nghề tại các làng nghề. Mở rộng hình thức dạy nghề theo hợp đồng đào tạo hoặc đặt hàng giữa cơ sở dạy nghề với DN.
Thứ năm, đẩy mạnh liên kết giữa người học, nhà trường, DN.
Việc liên kết trong tuyển sinh, tổ chức đào tạo, thực hành, thực tập và giải quyết việc làm sau tốt nghiệp giữa người học – nhà trường – DN là rất hiệu quả. Đẩy mạnh hợp tác vùng nhằm phát huy thế mạnh là địa phương cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội, tăng cường giao lưu, liên kết với các cơ sở, trung tâm dạy nghề lớn tại Hà Nội để được hỗ trợ về giáo viên, giáo trình… góp phần nâng cao năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề của tỉnh. Tăng cường hợp tác quốc tế, kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, liên kết đào tạo giữa các trường cao đẳng, trường trung cấp trong tỉnh với các cơ sở đào tạo nghề của các nước phát triển để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động có tay nghề; thúc đẩy phát triển mô hình đào tạo chương trình nghề trọng điểm quốc tế; khuyến khích tổ chức hội thảo khoa học, tham quan mô hình đào tạo tiên tiến, chia sẻ trao đổi kinh nghiệm trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng thị trường lao động trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ sáu, nhóm giải pháp đối với cơ quan quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT.
Kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý về ĐTN, cần bố trí đầy đủ nhân sự làm công tác quản lý ĐTN cấp tỉnh và cấp huyện theo hướng chuyên môn hóa, hạn chế và tiến tới xóa bỏ tình trạng cán bộ làm công tác quản lý về ĐTN theo hình thức kiêm nhiệm tại cấp huyện. Chính thực trạng này làm cho công tác thực hiện chính sách ĐTN tại cấp huyện còn yếu trong khi cấp huyện lại là cấp lập kế hoạch, tổ chức triển khai chính sách trực tiếp và chủ yếu nhất. Xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ không chuyên trách cấp xã, có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Có chế độ đãi ngộ phù hợp để đội ngũ này yên tâm công tác nhằm bảo đảm chính sách được triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời tại cấp cơ sở.
Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chính sách ĐTN. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội và người dân trong lập kế hoạch thực hiện, tuyên truyền, vận động, huy động nguồn lực, theo dõi, giám sát và đánh giá thực hiện chính sách. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về ĐTN các cấp, trên cơ sở phân định rõ nhiệm vụ và quyền hạn về dạy nghề ở mỗi cấp, tránh trùng lặp và kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ. Bảo đảm hệ thống tổ chức bộ máy từ trên xuống dưới hoạt động thống nhất, tinh giản, thuận lợi cho việc điều hành, hạn chế sự xáo trộn, chồng chéo, gây ảnh hưởng đến công tác ĐTN cho LĐNT. Huy động tối đa sự vào cuộc của các cơ quan liên quan, như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên… vào việc xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo nghề. Thậm chí, coi việc ĐTN cho hội viên, đoàn viên là trách nhiệm chính trị của các cơ quan này.