Pháp luật về minh bạch hóa hoạt động quản lý hành chính nhà nước

(Quanlynhanuoc.vn) – Minh bạch hóa trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được xem là một trong bốn trụ cột (nguyên tắc) chủ đạo để hoạt động quản lý nhà nước tốt. Thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, minh bạch hóa hệ thống pháp luật ở nước ta đã được đề cập đến như là một trong những yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói chung, quản lý hành chính nhà nước nói riêng, bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động của nhà nước và là yêu cầu của việc thực hiện các cam kết quốc tế.

 

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì hội nghị của Chính phủ về xây dựng, hoàn thiện, thi hành pháp luật. Ảnh: QUANG HIẾU. 

Minh bạch bao gồm hai khía cạnh quan trọng là khả năng tiếp cận thông tin (một cách phù hợp, kịp thời, chất lượng) quyền, cơ hội được giám sát và phản biện của đối tượng được tiếp cận thông tin. Hai khía cạnh này có quan hệ gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại với nhau. Thông tin được cung cấp một chiều khó có thể đáp ứng được các yêu cầu về sự phù hợp, đầy đủ và kịp thời. Ngược lại, nếu tiếp cận thông tin không tốt thì quyền và cơ hội giám sát sẽ không được phát huy.

Về bản chất, minh bạch dường như rất gần với khái niệm trách nhiệm giải trình. Mục đích đòi hỏi của minh bạch là cho phép các tác nhân trong nền kinh tế (người dân, doanh nghiệp và chính phủ) dễ dàng giải trình các chính sách và hoạt động của mình. Vì vậy, minh bạch còn  được coi là công cụ đánh giá của các tổ chức công, các  thông tin cung cấp cần thiết cho hoạt động của các tác nhân trong nền kinh tế.  Đồng  thời, căn cứ vào đó, các tổ chức công dễ dàng kiểm tra các thông tin được cung cấp và  sử dụng nó để duy trì tính giải trình của tổ chức. Bên cạnh đó, người bên ngoài tổ chức cũng có thể theo dõi, giám sát và đánh giá được các hoạt động của  những người bên trong tổ chức .

 Minh bạch hóa hoạt động quản lý hành chính nhà nước

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, minh bạch hóa (MBH) hệ thống pháp luật ở nước ta đã được đề cập đến như là một trong những yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước (QLNN) nói chung, quản lý hành chính nhà nước (QLHCNN) nói riêng, bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động của nhà nước và là yêu cầu của việc thực hiện các cam kết quốc tế, đặc biệt khi đã là thành viên của Tổ chức Thương mại kinh tế thế giới (WTO) và các tổ chức khác, Việt Nam phải bảo đảm hệ thống pháp luật của mình phù hợp với những tiêu chuẩn chung của WTO, của Tổ chức thương mại Châu Á – Thái Bình Dương (gọi tắt CTTPP). Theo đó, các quy phạm pháp luật về MBH trong hoạt động QLHCNN bao gồm các nội dung sau:

Thứ nhất, các quy định của WTO và hợp đồng thương mại (HĐTM) Việt Nam – Hoa Kỳ.

HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ1 được ký kết tại Oasinhtơn ngày 13/7/2000 và có hiệu lực kể từ ngày 10/12/2001 đã mở đường cho việc Việt Nam gia nhập WTO mà trong đó, chúng ta cam kết thực hiện các nguyên tắc công khai, minh bạch của hệ thống thương mại thế giới. Nội dung về MBH trong các hiệp định và thỏa thuận của WTO mà Việt Nam ký kết để hội nhập về cơ bản bao gồm: (1) Các quy định về nghĩa vụ yêu cầu quốc gia thành viên phải đăng tải tất cả các luật, quy định chung trước khi thực thi các luật, các quy định chung. (2) Quy định yêu cầu quốc gia thành viên phải thông báo các chính sách có liên quan đến hoạt động thương mại của mình tới WTO và các nước thành viên. (3) Các quy định liên quan đến việc thực thi các quy định của nhà nước một cách nhất quán, đồng bộ, công bằng và hợp lý và các quy định liên quan đến quyền được yêu cầu xem xét lại các quyết định trước khi thực thi.

Thứ hai, chính sách, pháp luật của Việt Nam về MBH hoạt động QLHCNN.

MBH hoạt động QLHCNN là một trong những định hướng quan trọng mà Đảng và Nhà nước luôn quan tâm. Hoạt động QLHCNN có phạm vi rộng lớn gồm nhiều lĩnh vực. Có tính phức tạp do nhiều khâu có mối quan hệ chặt chẽ: từ việc hoạch định chính sách, tổ chức bộ máy, xây dựng, ban hành đến việc tổ chức thực hiện; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, MBH hoạt động QLHCNN đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ, toàn diện ở tất cả mọi khâu của quá trình quản lý mới bảo đảm sự phù hợp với các nguyên tắc MBH, đồng thời bảo đảm được tính công bằng, dân chủ trong QLHCNN.

Thực hiện các cam kết trong HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ và trong khuôn khổ các văn bản pháp lý của WTO khi Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế – quốc tế, Việt Nam đã thực hiện việc rà soát và ban hành hầu hết văn bản pháp luật nhằm cụ thể hóa các nguyên tắc về minh bạch trong hoạt động QLHCNN, nhất là về nội dung quản lý và cơ chế (phân cấp, phân quyền, ủy quyền, giao việc và phân công công việc) điều chỉnh.Trong đó, có thể kể tới : Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015; Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015; Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước Quốc tế năm 2005; Luật Điều ước Quốc tế năm 2016;  Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2021; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật Thanh tra năm 2010; Luật Tố tụng Hành chính năm 2015; Luật Đầu tư công năm 2019; Luật Doanh nghiệp năm 2020; Luật Khiếu nại năm 2019; Luật Tố cáo năm 2019 …

Ảnh minh họa (Nguồn: internet).

Như vậy, về cơ bản khuôn khổ luật pháp của nước ta trong một chừng mực nhất định đã phù hợp với các yêu cầu của cam kết quốc tế, như: quy định về quyền tham gia góp ý kiến xây dựng VBQPPL (Điều 6, Điều 36, 39 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015); quy định về công bố văn bản pháp luật của Quốc hội, Chủ tịch nước được thực hiện theo quy định tại Điều 80, 81 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015; quy định về việc công bố các điều ước quốc tế trên công báo (Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005).

Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành VBQPPL năm 2020 đã xác định nguyên tắc xây dựng, ban hành VBQPPL của các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền phải: « Bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL trừ trường hợp VBQPPL có nội dung thuộc bí mật nhà nước; bảo đảm tính minh bạch trong các quy định của VBQPPL »(khoản 6 Điều 5).

Luật Cán bộ, công chức năm 20082 cũng xác định nguyên tắc trong thi hành công vụ: « …minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát (Điều 3, khoản 3). Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005, Điều 7 có quy định: cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.

Vì vậy, các cơ quan, tổ chức không được vì lý do nào khác để từ chối việc công bố công khai chính sách và các điều kiện nhằm tạo tính minh bạch trong hoạt động của mình để tránh sự kiểm soát của người dân và của xã hội. Những quy định trên là một bước tiến quan trọng trong quá trình MBH hoạt động của cơ quan, tổ chức đơn vị hành chính nhà nước. Đặc biệt, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định về nguyên tắc cũng như nội dung công khai, minh bạch: “1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai, minh bạch thông tin về tổ chức, hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh và nội dung khác theo quy định của pháp luật; 2. Việc công khai, minh bạch phải bảo đảm chính xác, rõ ràng, đầy đủ, kịp thời theo trình tự, thủ tục do cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quy định và phù hợp với quy định của pháp luật”.3

Trong QLHCNN đối với các hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế, Luật Doanh nghiệp cũng có những quy định cải thiện đáng kể nhằm hướng tới mục tiêu MBH, nhất là việc công bố công khai và cung cấp thông tin về đăng ký doanh nghiệp, về nội dung đăng ký kinh doanh (Điều 32- 33); bảo đảm quá trình soạn thảo các VBQPPL đến các điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp và người dân phải được lấy ý kiến tham gia thông qua các hội nghị, hội thảo đối thoại trực tiếp về đánh giá, góp ý phản biện tác động của môi trường (chính sách, công cụ, điều kiện…) để tiếp thu nhằm tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp và người dân.

Đối với việc QLHCNN về đầu tư công, Điều 14 Luật Đầu tư công năm 2019 đã xác lập những nội dung cơ bản về minh bạch trong đầu tư công4. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư công cũng quy định về hoạt động giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư nhằm bảo đảm cho hiệu quả đầu tư đạt kết quả hữu hiệu.

Bên cạnh đó, chương trình, mục tiêu về cải cách nền hành chính nhà nước (từ Nghị quyết số 30c/NQ-CP về Chương trình tổng thể Cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2010 – 2021 và Nghị quyết số 76/NQ-CP về Chương trình tổng thể Cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2021- 2030) thì MBH hoạt động QLHCNN đã được đặt ra như một tất yếu nhằm nâng cao năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ công. Trên cơ sở Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế với quan điểm: Ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, song có trọng tâm, trọng điểm. Ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ công, trước hết là trong lĩnh vực liên quan tới doanh nghiệp, người dân như giáo dục, y tế, giao thông, nông nghiệp…

Cụ thể hóa quan điểm trên, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính phủ điện tử nhằm“Đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Nâng vị trí của Việt Nam về Chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên Hợp Quốc. Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trên môi trường mạng”.

Tuy nhiên, sau gần 7 năm, việc triển khai Chính phủ điện tử chưa đạt được như mong muốn. Vì lẽ đó, ngày 15/6/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030. Để triển khai thực hiện, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo việc thành lập Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử trên cơ sở kiện toàn Ủy ban quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin. Đồng thời, Ủy ban có sự tham gia của đại diện cho khu vực tư nhân giúp phát huy hiệu quả hợp tác công – tư nhằm gắn kết trách nhiệm cá nhân người đứng đầu từng bộ, ngành, địa phương và được đo lường qua bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả trong QLHCNN của bộ, ngành và địa phương.

Như vậy, có thể khẳng định: pháp luật về MBH hoạt động QLHCNN là hệ thống các VBQPPL gồm nhiều nội dung với phạm vi điều chỉnh rộng. Về nội dung minh bạch trong các quy phạm chủ yếu tập trung ở những nội dung: Một là, MBH việc hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách của cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước. Hai là, MBH các phương án đầu tư, phân bổ các nguồn lực của Nhà nước đối với các dự án đầu tư công (mua sắm công, đầu tư xây dựng cơ bản). Ba là, MBH hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước (tài chính và ngân sách, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ). Bốn là, MBH thủ tục hành chính đối với người dân và doanh nghiệp. Năm là, MBH hoạt động quản lý và sử dụng đất đai, nhà ở, các công trình xây dựng khác. Sáu là, MBH hoạt động QLHCNN về giáo dục – y tế, môi trường, dân cư. Bảy là, MBH công tác cán bộ. Tám là, MBH trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.

Những vấn đề đặt ra trong việc thúc đẩy minh bạch hóa hoạt động quản lý hành chính nhà nước hiện nay

Để tiếp tục công cuộc đổi mới với mục tiêu xây dựng thành công Nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật đã xác định bao hàm ý nghĩa đề cao vai trò của pháp luật về tính minh bạch trong điều chỉnh các quan hệ QLNN nói chung, QLHCNN nói riêng, về mở rộng dân chủ, công khai hóa các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, đồng thời, pháp luật về MBH trong QLHCNN còn là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa và phòng chống có hiệu quả đối với những hành vi tiêu cực nảy sinh trong hoạt động QLNN nói chung, QLHCNN nói riêng.

Những thành tựu nêu trên đã minh chứng cho sự nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo đảm sự minh bạch, trong việc ban hành hệ thống pháp luật cả về tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị nhà nước đến các hoạt động QLNN. Tuy nhiên, so với yêu cầu của công cuộc đổi mới và so sánh tham chiếu với các cam kết song phương và đa phương, nhất là với HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ và với các quy định của WTO đã đặt ra một số vấn đề cần phải khắc phục nhằm nâng cao tính minh bạch của hệ thống pháp luật cũng như hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan QLHCNN nói riêng sao cho phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền và yêu cầu của hội nhập quốc tế.

Thứ nhất, hiện tại, chưa có quy định rõ ràng về việc xác định thế nào là văn bản có giá trị áp dụng chung; chưa có các quy định cụ thể và rõ ràng về nghĩa vụ đăng tải các điều ước quốc tế trên công báo; chưa có các quy định rõ ràng về việc công bố số liệu thống kê, quy hoạch xây dựng, sử dụng đất; chưa có cơ chế để tổ chức cho Nhân dân thường xuyên tham gia góp ý kiến vào việc soạn thảo VBQPPL và đang tồn tại quá nhiều lần dự thảo luật, pháp lệnh trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh.

Thứ hai, đối với hoạt động của Chính phủ, hiện tại chương trình xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số còn gặp những khó khăn nhất định, như: chưa có khuôn khổ pháp luật chung cho việc xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số để người dân có thể dễ dàng truy cập đến các thông tin của Chính phủ và giao lưu trực tuyến với các cơ quan của Chính phủ; còn thiếu các chuyên gia, các chuyên viên về công nghệ thông tin để triển khai, vận hành; vấn đề “chia sẻ thông tin, chia sẻ văn hoá” giữa các bộ, ngành và giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương chưa được nhận thức một cách toàn diện, thống nhất; các bộ, ngành thường có xu hướng giữ thông tin cho mình, không muốn trao đổi, sử dụng công nghệ thông tin; mức độ sẵn sàng điện tử (e-readiness) của Việt Nam chưa cao.

Thứ ba, đối với hoạt động của tòa án, cơ chế “tranh tụng”, một trong những cơ chế nhằm tăng cường tính minh bạch trong hoạt động xét xử được quy định như là một nguyên tắc cơ bản. Việc thực thi pháp luật tố tụng liên quan đến MBH hoạt động của toà án còn hạn chế nhất định làm ảnh hưởng đến việc tổ chức các phiên tòa xét xử công khai. Việc công khai bản án, quyết định của tòa án, mới dừng lại ở việc tuyên án công khai tại phiên tòa và giao bản án cho những người có liên quan mà chưa tạo điều kiện cho giới nghiên cứu khoa học pháp lý muốn tiếp cận bản án, quyết định của tòa án một cách thường xuyên, thuận tiện.

Thứ tư, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề cập tới yêu cầu pháp luật phải kiến tạo phát triển, thích ứng nhanh với những chuyển biến nhanh chóng của thực tiễn, từ đó, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xác định rõ các vấn đề trọng tâm, trọng điểm trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng MBH hoạt động QLNN nói chung, QLHCNN nói riêng nhằm thực thi một cách thống nhất và nghiêm minh đối với với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Chú thích:
1. Hợp đồng thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được Quốc hội Việt Nam (Khoá X) phê chuẩn tại kỳ họp thứ 10, ngày 28/11/2001.
2. Luật Cán bộ, công chức năm 2008, sửa đổi năm 2015.
3. Điều 6, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.
4. Điều 14, Điều 74, Điều 76 Luật Đầu tư công năm 2019.
Tài liệu tham khảo:
1.Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
2. Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và ở đơn vị sự nghiệp công lập.
3. Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ quy định về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nơi làm việc.

PGS.TS. Nguyễn Thị Phượng
Học viện Hành chính Quốc gia