Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thể hiện mục tiêu, bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Trong đó, Nhà nước là chủ thể có vai trò to lớn trong việc hiện thực hóa mục tiêu này. Hoạt động của Nhà nước là vì lợi ích chung của toàn xã hội, của cả nền kinh tế, do đó, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng đến mục tiêu phát triển xã hội và mỗi chính sách xã hội cũng phải tạo động lực cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ảnh minh họa (internet).
Phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam

Phát triển kinh tế (PTKT) gắn với thực hiện tiến bộ và bảo đảm công bằng xã hội (CBXH) là quan điểm phát triển phổ biến hiện nay, vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ, đồng thời cũng vừa là thước đo đánh giá sự phát triển của các quốc gia. Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực chất của PTKT gắn với thực hiện tiến bộ và CBXH là việc giải quyết hài hòa giữa PTKT với thực hiện các chính sách xã hội nhằm đem lại cuộc sống ấm no, bình đẳng, hạnh phúc cho Nhân dân; và cũng là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. Đúng như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc uống, già không lao động thì được nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”1.

Trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, quan điểm này càng có ý nghĩa quan trọng – là đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng mang tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Theo đó, vai trò của Nhà nước thể hiện ở việc định hướng sự phát triển nền kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để bảo đảm cho sản xuất, thị trường ổn định, phát triển theo đúng mục tiêu đề ra. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế đáp ứng các yêu cầu phát triển. Nhà nước cũng tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản cho hoạt động của thị trường; đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của người sản xuất, các doanh nghiệp.

Khuôn khổ pháp luật do Nhà nước thiết lập sẽ tác động, điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế theo định hướng nhất định. Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ, chính sách của mình để can thiệp vào nền kinh tế và sử dụng các công cụ luật pháp, chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm cho cơ chế thị trường vận hành tốt nhất, bảo đảm tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, khắc phục các khuyết tật của thị trường, ngăn chặn các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và giảm bớt các biến động theo chiều hướng xấu trong nền kinh tế như thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, suy thoái…

Để thực hiện tiến bộ và CBXH, Nhà nước đã sử dụng các công cụ, chính sách thuế, các chương trình phúc lợi xã hội. Việc thực hiện CBXH không chỉ dựa vào chính sách điều tiết thu nhập, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội mà còn phải tạo ra những điều kiện, tiền đề cần thiết để bảo đảm cho mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, việc làm… để họ có thể tự lo liệu và cải thiện đời sống của bản thân, gia đình; đồng thời, góp phần xây dựng đất nước. Vì vậy, Nhà nước vừa quan tâm đầu tư thỏa đáng vừa coi trọng huy động các nguồn lực trong Nhân dân để đem lại lợi ích chung cho xã hội và mỗi người. Nhà nước còn đóng vai trò chính trong củng cố quốc phòng – an ninh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng, chống biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, ưu tiên phát triển giáo dục, khoa học – công nghệ… để duy trì sự phát triển ổn định, tiến bộ của xã hội.

Chính vì vậy, ở bất cứ giai đoạn nào, mỗi chính sách kinh tế của Nhà nước đưa ra cũng đều phải hướng đến mục tiêu phát triển xã hội và mỗi chính sách xã hội cũng phải tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhà nước coi đầu tư cho các vấn đề xã hội, như: giáo dục, văn hoá, y tế, an sinh… là đầu tư cho sự phát triển bền vững.

Đánh giá vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thời gian qua

Quan điểm PTKT gắn với tiến bộ và CBXH đã được Nhà nước ta từng bước thể chế hóa thành các chính sách, chương trình, dự án thiết thực và thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và xã hội. Nhờ vậy, sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong PTKT cũng như thực hiện tiến bộ và bảo đảm CBXH.

Đánh giá về phát triển kinh tế

Thời gian qua, Nhà nước ta đã chỉ đạo sát sao trong xây dựng, ban hành các chính sách kinh tế kịp thời và kiểm soát tốt các yếu tố của thị trường, từ đó giúp cho nền kinh tế vĩ mô của đất nước luôn giữ được sự phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng khá cao, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng 6%/năm. Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD). Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 – 2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 – 20202. Trong hai năm (2020 – 2021), nền kinh tế nước ta bị ảnh hưởng nặng nề do các đợt bùng phát của đại dịch Covid-19, Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo rà soát, sửa đổi thể chế, cải cách hành chính nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong các hoạt động đầu tư, sản xuất – kinh doanh và đời sống xã hội. Nhờ sự nỗ lực trong việc kiểm soát nhanh chóng dịch Covid-19 và cùng với những chính sách hỗ trợ kịp thời của Chính phủ đã góp phần tăng GDP năm 2021 đạt mức 2,58% so với năm 2020. Lạm phát được kiểm soát tốt, chính sách tiền được điều hành linh hoạt, cung ứng đủ vốn phục vụ nhu cầu của nền kinh tế. Thu ngân sách nhà nước đạt 1.523,4 ngàn tỷ đồng, tăng 13,3% so với dự toán, xuất khẩu 336,25 tỷ USD, xuất siêu 4 tỷ USD, nợ công giảm, nợ xấu được kiểm soát3.

Sự định hướng của Nhà nước trong phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế đã phát huy hiệu quả tích cực, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khách quan và xu thế thời đại, làm cho cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch tích cực, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và giá trị thương hiệu quốc gia tăng mạnh. Đặc biệt, Việt Nam nổi lên trở thành điểm đến hàng đầu tại khu vực ASEAN về sản xuất, là nơi hấp dẫn các tập đoàn đa quốc gia và thu hút vốn đầu tư FDI. Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2020 của Tổng cục Thống kê cho thấy, mức thu nhập bình quân đầu người của cả nước trong giai đoạn 2012 – 2020 tăng liên tục, năm 2020 là 4,2 triệu đồng cao hơn 2,1 lần so với năm 2012 (2 triệu đồng)4.

Có được những kết quả này cũng là nhờ quá trình đổi mới và phát triển tư duy lý luận kinh tế của Đảng, Nhà nước ta trong những năm qua là xuyên suốt nhất quán, ngày càng đạt được tính hệ thống, đồng bộ cao; bảo đảm sự thống nhất, hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, giữa phát triển và hội nhập. Tư duy lý luận kinh tế của Đảng thực sự đi trước, có vai trò dẫn đường và định hướng quá trình đổi mới và phát triển kinh tế trên thực tế. Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên trì tư duy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cho đến nay, thực tế đã chứng minh đây là con đường đi đúng đắn bằng những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội mà nước ta đã đạt được trong hơn 35 năm qua.

Về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Nhờ những chính sách xã hội thiết thực và kịp thời của Chính phủ, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đầu tiên về đích trước mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc về giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, từ 70% (năm 1990) xuống còn 3% (năm 2020). Thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng: năm 1985 là 159 USD, năm 2020 lên 3.521USD. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2020 khoảng 2,26%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,61%, khu vực nông thôn là 1,59%, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,48%5. Những chính sách của Nhà nước đầu tư trong lĩnh vực y tế, giáo dục đã đem lại nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao sức khỏe cho Nhân dân cả về vật chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống và nâng cao trình độ dân trí. Tuổi thọ trung bình từ 72,9 tuổi (năm 2010) lên 73,7 (năm 2020). Chỉ số phát triển con người (HDI) hiện xếp 110/189 nước (năm 2019), đưa Việt Nam vào nhóm phát triển con người cao. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội chiếm 31,9% lực lượng lao động xã hội. Tham gia bảo hiểm thất nghiệp 27,2%.

Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục ngày càng phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Việt Nam đã đạt kết quả tích cực trong công tác giáo dục phổ cập và xóa mù chữ. Tất cả các tỉnh, thành phố đều đạt phổ cập trung học cơ sở và đạt chuẩn phổ thông giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2025. Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng lên, được quốc tế ghi nhận. Chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% (năm 2015) lên khoảng 65% (năm 2020). Môi trường sống của người dân được cải thiện. Theo Báo cáo phát triển bền vững 2020, Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất đạt được năm mục tiêu hành động của Liên hiệp quốc, trong đó có các biện pháp giảm khí thải CO2, thúc đẩy năng lượng tái tạo và nâng cao khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu6.

Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, cùng với những chính sách nhân văn, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội cho Nhân dân. Nguồn: tapchicongsan.org.vn.

Trong hai năm (2020 – 2021), đời sống của Nhân dân tuy gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của thiên tai và dịch bệnh Covid-19 nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương và sự nỗ lực của người dân đã giữ được sự ổn định. Vấn đề phúc lợi xã hội và công tác an sinh xã hội luôn được Chính phủ quan tâm, chỉ đạo và triển khai thực hiện ngay cả trong điều kiện dịch bệnh lan rộng làm cho nguồn thu từ ngân sách của Nhà nước sụt giảm nhiều.

Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tính đến ngày 15/12/2021, tổng kinh phí từ nguồn ngân sách trung ương đã hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng do đại dịch Covid-19 là gần 68,9 nghìn tỷ đồng cho 51,1 triệu lượt người và 701,5 nghìn đơn vị sử dụng lao động/hộ kinh doanh. Tính đến ngày 23/12/2021, đã hỗ trợ gần 149,1 nghìn tấn gạo cho 2,5 triệu lượt hộ với gần 9,9 triệu lượt nhân khẩu thiếu đói do giáp hạt, ảnh hưởng dịch bệnh và thiên tai. Tính đến ngày 15/12/2021, đã hỗ trợ giảm giá điện, giá nước với tổng hỗ trợ lần lượt là gần 2,3 nghìn tỷ đồng và 310,2 tỷ đồng cho Nhân dân trên địa bàn cả nước. Trong năm 2021, tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là 9,7 nghìn tỷ đồng, trong đó hỗ trợ cho các đối tượng người có công, thân nhân người có công là 4,4 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo là 2,8 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ cứu đói các đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng khác là 2,5 tỷ đồng. Có gần 29,1 triệu thẻ bảo hiểm xã hội/sổ/thẻ khám, chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng7. Điều này đã góp phần hiện thực hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, lấy con người là trung tâm và không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển.

Những hạn chế nhất định

Do sức ép về tăng trưởng kinh tế nhanh nên nhiều ngành, nhiều địa phương ít quan tâm đến phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và CBXH. Kết quả cho thấy, tăng trưởng kinh tế chưa có tính ổn định cao, tăng trưởng nhanh nhưng chưa bền vững, dễ bị ảnh hưởng, tổn thương từ các yếu tố bên ngoài, đẩy lạm phát tăng cao. Tăng trưởng kinh tế nóng làm kéo theo những hệ lụy xã hội như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, gia tăng bất bình đẳng xã hội, các giá trị văn hóa đạo đức xã hội ngày càng đi xuống… Quản lý nhà nước về kinh tế nhiều nơi còn buông lỏng, làm xuất hiện trong xã hội ngày càng nhiều những biểu hiện làm giàu bất chính như tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp, rửa tiền… gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH. Tham nhũng xảy ra ở hầu hết các ngành, các cấp, thậm chí xảy ra ngay trong các cơ quan có chức năng chống tham nhũng.

Tăng trưởng kinh tế chưa đi đôi với giảm bất bình đẳng thu nhập và chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính sách đầu tư cho phát triển văn hóa, xã hội chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế và chưa khắc phục được sự yếu kém trong quản lý nhà nước về văn hóa và xã hội.

Một số chính sách về an sinh xã hội, giảm nghèo còn chồng chéo, chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao và chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo. Số người nghèo, thất nghiệp còn nhiều. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nhất là tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo vẫn còn cao; khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn.

Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở rộng nhưng phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho người dân. Chất lượng khám, chữa bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Cơ chế, chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám, chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn bất cập. Sự đầu tư và sự hưởng thụ về giáo dục, sức khỏe và các dịch vụ khác ngày càng nghiêng về phía người có nhiều tiền sống ở thành thị. Tuổi thọ bình quân tuy tăng cao nhưng chất lượng sống của người dân chưa cao…

Một số kiến nghị nhằm góp phần phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội hiệu quả

Trong bối cảnh thế giới và trong nước, thời gian tới vẫn có nhiều biến động khó lường khi tình hình dịch bệnh Covid-19, căng thẳng xung đột địa chính trị, khủng bố, chiến tranh thương mại, biến đổi khí hậu… diễn biến phức tạp; cùng với đó là những yêu cầu đặt ra trong hội nhập quốc tế, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trở thành những thách thức lớn đối với vai trò của Nhà nước trong việc PTKT, thực hiện tiến bộ và CBXH ở nước ta. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần tập trung vào giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:

Thứ nhất, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa PTKT gắn với thực hiện tiến bộ và CBXH, Nhà nước phải kiên trì lấy PTKT làm trung tâm, nỗ lực phát triển sức sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, theo hướng tăng trưởng bền vững. Bởi đây là điều kiện quan trọng để tạo ra cơ sở vật chất hùng hậu, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần trong Nhân dân được cải thiện. Vì vậy, Nhà nước cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về mối quan hệ này để tạo sự thống nhất, đồng thuận cao trong các cấp, các ngành và cả xã hội, từ đó trở thành nhận thức của toàn dân và dựa vào sự nỗ lực phấn đấu của tất cả mọi thành viên trong xã hội.

Thứ hai, Nhà nước cần tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về PTKT gắn với thực hiện tiến bộ và CBXH ngay trong từng bước đi, trong từng chính sách cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Bảo đảm sự kết hợp hài hòa trong mỗi chính sách PTKT phải hướng tới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và CBXH; khắc phục tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế, không quan tâm đúng mức các giá trị văn hóa, xã hội.

Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế, thực hiện đúng và đẩy đủ chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Điều hành nền kinh tế không chỉ bảo đảm mục tiêu ngắn hạn mà còn hướng tới các mục tiêu trung và dài hạn. Nhà nước tiếp tục thể chế và thực thi có hiệu quả các thể chế, chính sách kinh tế nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, hoàn thiện cơ chế phối hợp đa ngành, đa lĩnh vực giữa trung ương và địa phương, đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính công, tăng cường công khai minh bạch và phòng, chống tham nhũng. Giải quyết đồng bộ việc ban hành và thực thi các quy định pháp luật về kinh doanh. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng cường vai trò quản lý nền kinh tế vĩ mô, khuyến khích thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, thực hiện chuyển đổi số và tăng cường đối mới sáng tạo để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả huy động tiếp cận nguồn lực và thị trường trong nước, thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ liên kết trong nước và năng lực hội nhập quốc tế. Tạo lập môi trường pháp lý bảo đảm quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.

Nhà nước tăng cường hơn nữa việc hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội, như: bảo đảm chế độ công bằng, phúc lợi xã hội một cách hợp lý, không thực hiện cào bằng; công tác xóa đói, giảm nghèo đa chiều bền vững; đầu tư hiệu quả cho y tế, giáo dục, văn hóa; cải thiện an sinh xã hội, bảo đảm về thu nhập, giải quyết việc làm; thu hẹp bất bình đẳng xã hội; xây dựng môi trường sống lành mạnh, hạnh phúc cho Nhân dân… Các chính sách này phải căn cứ theo quy định pháp luật và dựa trên công bằng quyền lợi, công bằng cơ hội, công bằng phân phối là nội dung chủ yếu, làm cho toàn thể nhân dân được hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước.

Thứ ba, Nhà nước cần quan tâm, giải quyết tốt những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, như: thực hiện tiến bộ và CBXH trong điều kiện kinh tế phát triển chưa cao, nguồn lực còn hạn chế; kinh tế phát triển, đời sống vật chất của Nhân dân được nâng lên nhưng một số lĩnh vực văn hóa, giáo dục phát triển không tương xứng; giữa chủ trương phát triển, quản lý xã hội với việc tổ chức thực hiện; giữa yêu cầu phát triển xã hội, phát triển con người với thực trạng hạn chế về nguồn nhân lực; giữa thực tiễn thực hiện tiến bộ và CBXH với công tác lý luận, định hướng phát triển. Điều đó, đòi hỏi Nhà nước phải có chiến lược phát triển đúng hướng, từng bước chuyển từ mục tiêu tăng trưởng vật chất sang mục tiêu vì chất lượng sống toàn diện của con người, đặt con người là trung tâm của sự phát triển.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Để bộ máy nhà nước hoạt động liêm chính, hiệu lực, hiệu quả cần tuyển dụng, sử dụng những cán bộ có tài, có tâm, có tầm. Cán bộ, công chức nhà nước được đãi ngộ xứng đáng và chịu trách nhiệm đến cùng mọi quyết định trong phạm vi, chức trách của mình. Đồng thời, cần phải có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, mất uy tín trước Nhân dân. Đây là chức năng quan trọng của Nhà nước.

Thứ năm, cần tiếp tục công khai, minh bạch các cơ chế, chính sách và quy định của Nhà nước. Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật; nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, ngăn chặn lợi ích nhóm và trục lợi trong thực thi các chính sách kinh tế – xã hội. Tăng cường tổng kết thực tiễn, nâng cao năng lực phân tích, dự báo nhất là dự báo chiến lược. Đổi mới căn bản, toàn diện công tác xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch PTKT – xã hội.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 438.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 61.
3, 7. Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2021. https://www.gso.gov.vn, ngày 29/12/2021.
4. Thông cáo báo chí về kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2020. https://www.gso.gov.vn, ngày 06/7/2021.
5. Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2020. https://www.gso.gov.vn, ngày 27/12/2020.
6. Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ta hiện nay. http://hdll.vn, ngày 01/4/2021.
TS. Phạm Thị Thùy
Trường Đại học Điện lực