Báo chí với công cuộc chuyển đổi số hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Cùng với các cấp, các ngành và cả đất nước, những năm qua, báo chí đã tiên phong tiến hành quá trình chuyển đổi số và đạt được nhiều kết quả tích cực. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, ngành báo chí – truyền thông nói chung, từng cơ quan báo chí nói riêng đang còn gặp không ít những khó khăn, thách thức, cần phải có những bước đi phù hợp để thành công trên con đường chuyển đổi số.

Đặt vấn đề

Sau gần 20 năm triển khai tích cực, quyết liệt đưa khoa học – công nghệ vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đến nay, có thể khẳng định Việt Nam đã thành công khi có thị trường viễn thông – internet vào loại hàng đầu của khu vực và thế giới trên ba tiêu chí: công nghệ tương đồng không thua nước nào từ cáp quang, 3G và 4G; giá cả, cước phí dịch vụ trong nước thấp hơn so với nhiều quốc gia khác; mức độ phổ cập, internet và thuê bao di động chiếm tỷ lệ khá cao trên tổng dân số.

Nền kinh tế số với sự ứng dụng sâu rộng của công nghệ thông tin trong mọi hoạt động của nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn, tối ưu hơn đã hình thành một nền kinh tế “không biên giới” mang lại giá trị lợi nhuận cao. Nhiều quốc gia đã xác định kinh tế số là động lực phát triển mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trên quy mô toàn cầu.

Cùng với đó, công nghệ báo chí cũng đã, đang thay đổi và có thể vượt qua các phương thức quản lý báo chí truyền thống. Các biện pháp quản lý báo chí hiện nay đã thay đổi căn bản từ việc sản xuất đến phát hành sản phẩm truyền thông.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi số

Nội dung về chuyển đổi số (CĐS), phát triển kinh tế số được đề cập nhiều lần trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII, Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021- 2030, xác định: “phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm việc, cách sống, đẩy mạnh cải cách thể chế, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số”1.

Trước đó, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, trong đó nhấn mạnh: “Chủ động, tích cực tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội…, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp, là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế – xã hội”.

Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số  quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, với tầm nhìn đến năm 2030: Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân. Đồng thời, Chương trình này cũng yêu cầu các cơ quan truyền thông, báo chí tập trung tuyên truyền chuyển đổi nhận thức của xã hội về CĐS thông qua các kênh truyền thông, chuyên trang, chuyên mục trên các chương trình truyền thanh, truyền hình.

Tiếp đó, Quyết định số 505/QĐ-TTg ngày 22/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định lấy ngày 10/10 hằng năm là Ngày CĐS quốc gia. Ngày CĐS quốc gia được tổ chức hằng năm nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhiệm vụ về CĐS quốc gia, thực hiện có hiệu quả Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; nâng cao nhận thức của người dân và toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của CĐS; đồng thời, thúc đẩy sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị một cách đồng bộ và sự tham gia của toàn dân bảo đảm sự thành công của CĐS.

Quyết định cũng đã yêu cầu các cơ quan thông tấn, báo chí ở trung ương và địa phương thực hiện đẩy mạnh việc tuyên truyền, quảng bá về Ngày CĐS quốc gia; xây dựng các chương trình giới thiệu và tuyên dương các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp điển hình đã đi đầu trong việc áp dụng các công nghệ và mô hình mới; tổ chức truyền thông đối ngoại, quảng bá Ngày CĐS quốc gia ra nước ngoài.

Đối với lĩnh vực báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng Chương trình Hỗ trợ CĐS cho các cơ quan báo chí (CQBC), theo đó hỗ trợ 3 nền tảng giúp các CQBC CĐS: (1) Quản lý tòa soạn điện tử, cho phép xây dựng tòa soạn hội tụ công nghệ hiện đại, đưa toàn bộ nghiệp vụ báo chí lên môi trường số. (2) Phân tích thông tin, dư luận trên mạng xã hội, giúp các CQBC nắm bắt kịp thời thông tin, dư luận xã hội, nhờ đó nhận biết được nhu cầu thông tin, có tin bài đáp ứng đúng mong muốn của người đọc, đúng thời điểm người đọc cần. (3) Hỗ trợ phòng, chống tấn công và ứng cứu khẩn cấp cho hệ thống thông tin của các CQBC nhằm tạo lá chắn, bảo vệ hoạt động trên môi trường số cho CQBC.

Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã xây dựng kế hoạch CĐS toàn ngành giai đoạn 2021 – 2025 gồm 5 danh mục dự án: hạ tầng số, nền tảng số, phát triển dữ liệu, ứng dụng – dịch vụ và an toàn thông tin. Việc triển khai kế hoạch này sẽ hỗ trợ quá trình CĐS báo chí, truyền thông – lĩnh vực quan trọng trong hoạt động thông tin và truyền thông nói chung.

Trọng tâm của CĐS báo chí là đưa sản xuất nội dung và phân phối nội dung lên môi trường số, đổi mới cách làm nội dung, đổi mới mô hình quản lý, tác nghiệp, của CQBC, tạo ra cơ hội, các giá trị gia tăng, đa dạng hóa nguồn thu để không chỉ dựa vào quảng cáo, làm chủ nền tảng phân phối nội dung trên không gian mạng.

Thách thức chuyển đổi số trong lĩnh vực báo chí

Trong công cuộc CĐS, báo chí đóng vai trò quan trọng trong tuyên truyền quảng bá, nâng cao nhận thức của các bộ, ngành, cả hệ thống chính trị và người dân về tác dụng, ảnh hưởng, hiệu quả của CĐS đến mọi mặt của đời sống xã hội.

Cùng với các cấp, các ngành và cả đất nước, báo chí cũng đã tiên phong tiến hành quá trình CĐS và đạt được nhiều kết quả trong ứng dụng khoa học – công nghệ. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, báo chí – truyền thông nói chung, từng CQBC nói riêng đang gặp vô số những khó khăn, thách thức trên con đường CĐS. Đó là, khó khăn về nhân sự . Tiến trình CĐS trong các CQBC gặp trở ngại đầu tiên chính là nhận thức trong lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên… Hết sức khó khăn để cùng lúc thay đổi cách nghĩ, cách làm của cả bộ máy từ phóng viên đến cộng tác viên.

Ngoài vấn đề tư duy, nhân sự, các tòa soạn báo cũng “đau đầu” với vấn đề kỹ thuật, công nghệ… phục vụ CĐS, thay đổi phương thức làm việc. Thực tế cho thấy, các phần mềm của các tòa soạn đã trang bị chủ yếu được sử dụng theo hướng mỗi phần mềm đáp ứng một hoạt động trong quy trình làm báo, chưa có sự liên kết tạo ra một môi trường thống nhất, chưa tạo được dòng lưu chuyển dữ liệu thông tin giữa các công đoạn trong quy trình làm báo. Một số yêu cầu về xây dựng một hệ phần mềm quản trị nội dung (CMS) dùng chung cho cả công việc xuất bản báo giấy và báo điện tử hiện nay vẫn còn quá khó khăn. Thiếu tự chủ về công nghệ, buộc phải lệ thuộc vào công nghệ của đối tác. Tác phong làm báo giấy của cán bộ, phóng viên, biên tập viên của nhiều CQBC đã tạo thành thói quen, khó tiếp cận và thay đổi theo phong cách mới; trong khi việc được tuyển dụng thêm những nhân sự mới là một việc làm không dễ dàng.

Về mặt tài chính, hiện nay hoạt động kinh tế báo chí gặp vô vàn khó khăn, nhất là sau 2 năm đại dịch Covid-19 vừa qua, doanh thu sụt giảm, khả năng tài chính để trang trải cho các hoạt động CĐS thật sự là một thử thách lớn. Trong khi đó, để đầu tư cho công nghệ, trang thiết bị hiện đại và đặc biệt là nhân sự giỏi phải có nhiều kinh phí, nguồn lực. Hơn nữa, do sự bất bình đẳng giữa CQBC trong nước và các nền tảng xuyên biên giới và sự thay đổi thói quen của người dùng dẫn đến việc lấn át của các nền tảng xuyên biên giới. Một thị phần rất quan trọng của quảng cáo hiện nay đang chuyển dần từ các CQBC sang các nền tảng xuyên biên giới. Các CQBC chỉ còn thị phần nhỏ, dẫn đến giảm sút nguồn thu. Báo chí đang đứng trước những thách thức lớn về sụt giảm lượng báo in và giảm nguồn thu từ quảng cáo. Đồng thời, hàng loạt chính sách kinh tế báo chí, quản trị nhân sự, phân phối thu nhập đã hình thành trên cơ chế cũ từ nhiều năm cần đổi mới hoặc làm cho phù hợp với các yêu cầu của thị trường.

Hiện nay, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, lúng túng, thiếu chủ động cung cấp thông tin cho báo chí, đặc biệt là yêu cầu về kỷ luật thông tin. Trình độ, kỹ năng ứng dụng khoa học – công nghệ, phân tích dữ liệu thông tin của nguồn nhân lực cũng chưa đáp ứng. Thách thức do sự thay đổi thói quen của người dùng, thói quen tiếp cận nguồn thông tin, hành vi tiếp nhận thông tin. Cách tiếp cận thông tin và nguồn thông tin được dịch chuyển từ các nguồn thông tin truyền thống trước đây, như: báo in, tạp chí in và điện tử sang loại hình mới, như: thông qua điện thoại thông minh, máy tính bảng hoặc qua các kênh truyền thông xã hội đang chi phối đời sống văn hóa, tinh thần của người dân.

Mặt khác, với sự phát triển của công nghệ số, mạng xã hội cũng phát triển rất mạnh mẽ. Hiện nay, thuật ngữ “nhà báo công dân” không còn xa lạ trong công chúng và được ra đời trên nền tảng của truyền thông xã hội, giúp cho công chúng có khả năng mở ra một kênh thông tin của cá nhân mình, đồng thời, hoạt động với tư cách tương tự một nhà báo: tự cung cấp, quảng bá, lan truyền những sản phẩm mang tính báo chí của mình ra cộng đồng. Ưu điểm của báo chí công dân ở Việt Nam, cũng như xu hướng chung trên thế giới là cung cấp thông tin đa chiều hơn cho độc giả bên cạnh kênh truyền thông chính thống. Qua đó, người dân được quyền đưa ra những ý kiến cá nhân của mình, đóng góp tích cực vào quá trình thảo luận về những vấn đề chung của xã hội.

Theo báo cáo của Việt Nam Digital tính đến tháng 6/2021, có 68,8 triệu người tiếp cận internet; có 72 triệu tài khoản mạng xã hội. Ước tính mỗi ngày có hơn 65% dân số Việt Nam đang sử dụng Zalo thường xuyên cho mục đích liên lạc, làm việc và học tập. Ngoài ra còn có các mạng xã hội: Mocha (12 triệu), Gapo (6 triệu) và Lotus (2,5 triệu)2.

Sự phát triển của hạ tầng công nghệ thông tin đã giúp truyền thông xã hội phát triển mạnh mẽ, xóa nhòa mọi ranh giới, làm thay đổi mối quan hệ giữa báo chí và độc giả, thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong báo chí. Nếu trước đây, độc giả Việt Nam đón nhận thông tin một chiều, thiếu cơ chế giám sát cũng như phản hồi đối với thông tin từ báo chí (hoặc giám sát, phản hồi kém hiệu quả tại các mục tương tác trong các CQBC, không phản ánh được thực tế tâm lý người đọc), thì hầu hết các tài khoản báo mạng đều triển khai mục “bình luận của bạn đọc” (comment) và “yêu thích” (like) dưới mỗi bài viết. Nhờ có dữ liệu thông tin từ phản hồi của bạn đọc, các tờ báo có thể nỗ lực tìm kiếm các chủ đề hay, có liên quan mật thiết đến thực tế và cuộc sống của độc giả hơn, với cách tiếp cận dễ hiểu hơn với quần chúng, tạo ra diễn đàn chung để công chúng thảo luận những vấn đề cùng quan tâm. Tốc độ lan tỏa của mạng xã hội giúp báo chí đẩy nhanh và lan tỏa rộng rãi đến Nhân dân, yêu cầu đội ngũ lao động ngành báo cần nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động chuyên môn.

Mạng xã hội hỗ trợ tốt cho báo chí truyền thống, sử dụng hiệu quả mạng lưới của mình để cung cấp những thông tin đúng sự thật và cần thiết cho công chúng. Sau đó, các tờ báo lớn đồng loạt điều tra và vạch trần sự việc trước công luận. Nhờ nhận được thông tin kịp thời, sự việc đã được cơ quan chức năng xử lý đúng người đúng tội, mang lại niềm tin cho người dân. Qua đó, nhiều hành vi sai trái của các tổ chức, cá nhân được phát hiện, giúp cho báo chí chính thống và cả chính quyền vào cuộc để xử lý các sai phạm… Mạng xã hội còn góp phần tích cực thúc đẩy tranh luận xã hội, kiểm chứng hiệu quả thông tin, thu hút công chúng quan tâm hơn đến tình hình kinh tế, chính trị – xã hội, và qua đó thực hiện được nguyên tắc dân chủ: “Dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”.

Mạng xã hội, với tính chất nhanh nhạy, rộng rãi và phạm vi tương tác đa chiều không phân biệt thời gian và không gian đang tác động mạnh mẽ đến toàn xã hội, trở thành sức mạnh to lớn có thể tạo nên những thay đổi tích cực. Tuy nhiên, mặt trái của mạng xã hội cũng có quá nhiều bất cập, đó là, thông tin ngập tràn trên mạng xã hội thiếu kiểm soát, không bị ràng buộc bởi các quy chuẩn hoạt động như các tờ báo chính thống và thông tin được đăng tải lên phần lớn là không được kiểm chứng… lại tạo điều kiện cho những người không cùng quan điểm chính trị và các thế lực thù địch tuyên truyền các thông tin sai sự thật, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì thế, vai trò định hướng dư luận và tập hợp quần chúng của báo chí chính thống càng phải đề cao.

Trong bối cảnh CĐS đã tạo ra quá nhiều thông tin giả (fake new) như hiện nay, quá nhiều những thông tin gây nhiễu thì vấn đề thách thức chính là cơ hội để các CQBC chứng minh về tính đúng đắn, tạo được niềm tin trong công chúng hơn bởi những thông tin chính xác, phản bác lại những thông tin sai sự thật. Do vậy, những thách thức về năng lực CĐS trong sản xuất, sáng tạo sản phẩm báo chí được đánh giá là thử thách cốt lõi trong ngành báo chí. CĐS trong việc sản xuất ra nội dung sản phẩm báo chí có vai trò vô cùng quan trọng. Thách thức trong công tác đấu tranh phản bác các thông tin sai sự thật, quan điểm sai trái được quan tâm nhưng nhiều trường hợp sức thuyết phục và hiệu quả chưa cao do công tác phối hợp chưa thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan có trách nhiệm liên quan. Hiện tượng tin giả tràn lan từ các mạng xã hội đang tạo ra áp lực cho các CQBC trong việc thực hiện sứ mệnh dẫn dắt, định hướng thông tin.

Một số đề xuất, kiến nghị chuyển đổi số trong lĩnh vực báo chí

Để CĐS trong lĩnh vực báo chí thành công, cần phải có một số giải pháp thúc đẩy như sau:

Thứ nhất, các CQBC cần tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CĐS. Coi CĐS trong lĩnh vực báo chí là công việc chung của cả xã hội, từ các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chủ quản và cộng đồng xã hội, những đối tượng thụ hưởng sản phẩm và dịch vụ báo chí, truyền thông. Bản thân các CQBC từ trung ương đến địa phương quán triệt vai trò quan trọng và sự cấp thiết phải triển khai CĐS báo chí đồng bộ với chương trình CĐS quốc gia; các CQBC chủ động triển khai, thực hiện.

Thứ hai, đầu tư nguồn lực, hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị, bảo đảm an ninh và điều kiện tác nghiệp trên môi trường số. Việc bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động kinh doanh trong môi trường số, ngoài các quy định pháp luật, ý thức và trình độ phóng viên, biên tập viên thì hạ tầng công nghệ hiện đại là điều kiện không thể thiếu. Do vậy, cần khai thác các nguồn lực, đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng CĐS. Để phát triển hạ tầng dữ liệu, cần hoàn thành các cơ sở dữ liệu quốc gia, tạo nền tảng cho CĐS; tập trung phát triển nền tảng để kết nối, chia sẻ, giám sát, phân tích và tổng hợp dữ liệu.

Thứ ba, đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ những người làm báo. Việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ những người làm báo chuyên nghiệp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, sáng tạo ra những tác phẩm báo chí có giá trị về nội dung tư tưởng và cách thức thể hiện phong phú, hấp dẫn, luôn cực kỳ quan trọng với mỗi tòa soạn. Trong biên tập, cần chú trọng cách viết tin, bài cho tòa soạn hội tụ. Theo đó, xu hướng viết tin, bài cho báo chí thiên về cách làm thông tin đa chiều. Thay những cột dày đặc chữ bằng các bài báo ngắn, thông tin sâu, nhiều chiều, mang đến cho độc giả nhiều cách tiếp cận.

Nhà báo cần được đào tạo nhiều kỹ năng, có thể làm việc với các phương tiện khác nhau, như: in ấn, trực tuyến, phát sóng video và nhiếp ảnh. Các nhà báo phải tìm hiểu và sử dụng công nghệ số để đưa tin, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của độc giả. Mỗi thành viên của tòa soạn không phải là những cá nhân chuyên biệt mà phải làm việc theo nhóm.

Các cơ sở đào tạo về báo chí, truyền thông cần phải đổi mới cả nội dung đào tạo và phương pháp đào tạo gắn với yêu cầu tác nghiệp trong tòa soạn hội tụ (báo chí số), chú trọng đào tạo giảng viên có kiến thức chuyên sâu về báo chí và công nghệ đa phương tiện, am hiểu về công nghệ thông tin. Đào tạo lý thuyết gắn liền với thực hành các kỹ năng tác nghiệp, thực hiện liên kết cơ sở đào tạo với CQBC; đào tạo kỹ năng chuyên môn và công nghệ thông tin đi liền với giáo dục đạo đức và trách nhiệm, sứ mệnh người làm báo.

Thứ tư, đổi mới phương thức quản lý tòa soạn. Vai trò của người đứng đầu (tổng biên tập) tòa soạn rất quan trọng. Người phụ trách sẽ chủ động điều phối kênh thông tin. Đối với một vấn đề, cần xây dựng nội dung thống nhất và nội dung riêng cho từng kênh thông tin. Luôn luôn tính đến việc kéo độc giả từ kênh thông tin này sang kênh thông tin khác. Ví dụ, độc giả đọc tin tức trên mobile để biết về sự kiện, nhưng họ sẽ có nhu cầu đọc kỹ hơn trên web hoặc xem trên báo in, trên kênh truyền hình. Xây dựng quy trình sản xuất phù hợp trên đa nền tảng. Phải cơ cấu, phân bổ lại lực lượng lao động. Đây cũng là một bước hết sức quan trọng trong việc đánh giá lao động và chi trả tiền lương gắn với vị trí việc làm tại CQBC.

Thứ năm, ngành Thông tin – Truyền thông từ trung ương đến địa phương cần sớm thành lập bộ phận nghiên cứu tư vấn, tham mưu về CĐS để hỗ trợ các CQBC. Bộ phận này gồm các chuyên gia, các doanh nghiệp công nghệ, các đơn vị quản lý, các CQBC. Bộ phận này vừa nghiên cứu, vừa tham mưu, vừa tư vấn về chính sách và tư vấn cho các CQBC CĐS như thế nào, đánh giá đơn vị có uy tín, hỗ trợ nguồn lực tài chính cho các CQBC…

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế. Tăng cường hợp tác, liên kết đào tạo, trao đổi thông tin với các nước có nền báo chí phát triển để có thể tiếp thu, học hỏi, kế thừa những kinh nghiệm, kỹ thuật về báo chí số. Từ đó, nghiên cứu mô hình cơ quan thông tấn báo chí hội tụ trên thế giới để vận dụng linh hoạt vào Việt Nam. Đồng thời, nên có sự hợp tác, liên kết giữa các chủ thể trên thị trường báo chí trong thực hiện CĐS. Cần có sự gắn kết giữa các CQBC với các công ty công nghệ cũng như sự hỗ trợ của cơ quan chuyên ngành. Việc liên kết, hợp tác mở ra cơ hội phát triển cho mỗi chủ thể và chính quá trình này làm giàu thêm hệ thống dữ liệu. Cùng với việc đầu tư tạo lập cơ sở vật chất cần gắn với việc làm giàu thêm dữ liệu số chính là động lực thúc đẩy của quá trình CĐS báo chí.

Kết luận

Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan chủ quản và sự chủ động, sáng tạo, vượt qua thách thức của bản thân các CQBC, chắc chắn trong tương lai gần, Việt Nam sẽ có nền báo chí chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, đa nền tảng, đa phương tiện, ứng dụng công nghệ số để cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, ý nghĩa tới công chúng mọi lúc, mọi nơi, góp phần định hướng dư luận, củng cố sự đồng thuận và niềm tin xã hội.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 213.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông. Báo cáo thuyết minh Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, cơ sở xuất bản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hà Nội, tháng 8/2021, tr. 99.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 -2025, tổ chức tại Hà Nội, ngày 31/12/2021.
2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ).
3. Chương trình phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến năm 2025 (Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ).
4. Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ).
5. Hội Nhà báo Việt Nam. Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác Hội năm 2021, triển khai nhiệm vụ năm 2022. Tháng 5/2022.
6. Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày 03/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025.
TS. Nguyễn Quang Vinh
Tổng Biên tập Tạp chí Quản lý nhà nước
ThS. Lê Huỳnh Lai
Trường Chính trị tỉnh Gia Lai