Phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật để đầu tư phát triển kinh tế-xã hội (KTXH), giảm nghèo, góp phần bảo đảm quốc phòng, giữ gìn an ninh, trật tự vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTSMN) và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, do có những đặc thù nên đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền có xu hướng giãn rộng; bất cập trong quản lý đất đai, tài nguyên chưa được giải quyết triệt để cộng với những vấn đề mới nảy sinh trong đời sống văn hóa-xã hội đã đặt ra nhiều thách thức. Bài viết này nhằm đưa ra một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội, gắn với bảo đảm an ninh, trật tự vùng DTTSMN trong bối cảnh tình hình mới và những yêu cầu đặt ra theo tinh thần nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Ảnh minh hoạ. http://tapchimattran.vn

Khái quát đặc điểm và kết quả thực hiện chính sách phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Vùng DTTSMN nước ta chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên và 1/3 dân số cả nước, trong đó có hơn 14 triệu đồng bào DTTS. Đây là vùng có vị trí chiến lược, quan trọng của quốc giavề chính trị, KTXH, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và bảo vệ môi trường sinh thái. Bên cạnh đó, các dân tộc thiểu số nước ta có số dân không đồng đều1, sống quần cư xen kẽ2; trình độ phát triển KTXH nhìn chung còn thấp và không đều nhau; mỗi dân tộc có ngôn ngữ, phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa riêng; tính đồng tôn, đồng tộc xuyên-liên biên giới và một số dân tộc gắn bó mật thiết với các tôn giáovà đang trong quá trình biến đổi mạnh mẽ dưới tác động của quá trình hội nhập phát triển. Những đặc điểm này cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp cận và giải quyết trong phát triển dưới góc độ quan hệ kinh tế – văn hóa dân tộc, quản lý xã hội vùng dân tộc liên quan đến xây dựng khối đoàn kết dân tộc, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự ở vùng DTTSMN nói riêng và cả nước nói chung.

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển KTXH vùng DTTSMN. Bố trí nhiều nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KTXH thiết yếu phát triển hệ thống giao thông điện, thủy lợi, nước sinh hoạt, các công trình trường học, trạm y tế. Thực hiện đồng bộ các giải pháp, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo sinh kế, việc làm; hỗ trợ nâng cao khả năng tiếp cận về giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin… cùng với các Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình xây dựng nông thôn mới được thực hiện, nên những năm gần đây, đời sống của đồng bào các dân tộc đã có sự thay đổi về nhiều mặt: tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 3%/năm, riêng xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) và huyện nghèo giảm bình quân từ 4-5%4; có 08/64 huyện nghèo thoát nghèo; 124/2.139 xã và 1.322/20.176 thôn ĐBKK ra khỏi diện đầu tư Chương trình 135; 106/2.139 xã ĐBKK đạt chuẩn nông thôn mới.

Có thể khẳng định, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đã góp phần quan trọng để cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống, vật chất, tinh thần, của đồng bào các DTTS. Bộ mặt nông thôn vùng DTTS, miền núi đã có sự chuyển biến rõ rệt, là những tiền đề, điều kiện quan trọng cho phát triển toàn diện, bền vững. Lãnh thổ và chủ quyền Quốc gia ở các vùng biên giới được bảo đảm. An ninh chính trị và trật tự xã hội trong vùng dân tộc cơ bản ổn định. Đồng bào đoàn kết, nâng cao cảnh giác đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẻ, phá hoại của các thế lực thù địch; đã và đang tham gia tích cực vào quá trình hội nhập với khu vực và thế giới của cả nước.

Một số vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với bảo đảm an ninh, trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay

Bên cạnh những kết quả đạt được, sự nghiệp phát triển KTXH vùng DTTSMN còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, có nguy cơ tiềm ẩn, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trong vùng.

Về kinh tế: trình độ phát triển KTXH của vùng DTTS và hầu hết các DTTS còn thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, khoảng cách phát triển ngày càng có xu hướng giãn rộng. Đồng bào DTTS nước ta phần lớn sống ở vùng núi, vùng có điều kiện KTXH khó khăn và đặc biệt khó khăn, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, sản xuất chưa phát triển. Điều kiện về bảo đảm lương thực, nhu cầu mặc và chỗ ở bảo đảm an toàn vẫn còn là thách thức đối với một số vùng, nhóm dân cư do sinh sống ở các khu vực có môi trường tự nhiên không thuận lợi. Môi trường sống thay đổi diễn ra mạnh mẽ dưới tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu cũng làm khó khăn hơn quá trình xây dựng cuộc sống của người dân. Năm 2020, với tỷ lệ dân số chiếm 14,7% nhưng số hộ nghèo chiếm tới 62% số hộ nghèo cả nước5. Khoảng cách giàu nghèo, phân tầng xã hội giữa các vùng và với đô thị, đồng bằng ngày càng lớn, nhất là đối với các dân tộc ít người, đồng bào sinh sống ở khu vực các tỉnh Tây Bắc, vùng núi cao Bắc Trung Bộ – Trường Sơn -Tây Nguyên. Trong báo cáo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng đã chỉ rõ “Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Chênh lệch giàu – nghèo còn lớn; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào DTTS, vùng bị thiên tai; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn khá lớn”6.

Vấn đề nghèo, khó khăn trong đời sống thường nhật của đồng bào cộng với sự thiếu hiểu biết về pháp luật cũng dễ dẫn dến hành vi vi phạm pháp luật vì nhu cầu trước mắt của cuộc sống, ảnh hưởng đến an ninh trật tự. Sự phát triển không đồng đều dẫn đến đời sống kinh tế – xã hội giữa các vùng, các dân tộc chênh lệch nhau dễ gây nên sự thắc mắc, so bì trong tâm lý cộng đồng dân tộc ảnh hưởng đến sự gắn kết dân tộc, cùng với nó là sự mặc cảm, tự ti, làm giảm yếu tố động lực phát triển.

Về văn hóa-xã hội: ở vùng DTTS, chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, lao động trong độ tuổi qua đào tạo thấp7. Vẫn còn tình trạng một bộ phận dân cư mù chữ hoặc tái mù chữ8. Bản sắc văn hóa của một số dân tộc đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng hóa, nhất là đối với các cộng đồng dân tộc có dân số ít hoặc kém phát triển hơn dưới tác động của đời sống KTXH hiện đại, quá trình xâm thực và tiếp biến văn hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Tình hình hoạt động tôn giáo vùng dân tộc có những diễn biến phức tạp, nảy sinh những vấn đề mới từ sự xâm nhập và biến đổi tín ngưỡng-tôn giáo, đạo lạ và truyền đạo trái phép.

Các vấn đề KTXH mới nảy sinh liên quan đến an ninh, trật tự: quá trình phát triển KTXH xuất hiện các xung đột xã hội, “điểm nóng” trong các tình huống như: tranh chấp quyền tiếp cận tài nguyên đất đai (liên quan đến đất đai các nông lâm trường, tình trạng sang chiếm, mua bán, nhượng đất), nguồn nước; kiểm soát di dân nội vùng và ngoại vùng, di cư tự do; di dân, tái định cư nhất là đối với các công trình thủy điện, thủy lợi. Các vấn đề xã hội mới nảy sinh trên nhiều phương diện khác nhau của đời sống vùng dân tộc như: vấn đề lao động, việc làm nông thôn và dịch chuyển lao động ra đô thị, (cả chính thức và phi chính thức); lao động qua -xuyên biên giới; hôn nhân qua biên giới, các tệ nạn xã hội và hành vi vi phạm pháp luật như ma túy, mại dâm, buôn bán người… diễn biến ngày càng phức tạp.  

Thực tiễn trên đặt ra nhiều nhiệm vụ cần giải quyết về KTXH, văn hóa gắn với bảo đảm an ninh, trật tự trong vùng đồng bào dân tộc, nhất là trong bối cảnh yêu cầu của thực tiễn phát triển trong nước cũng như quốc tế và khu vực.

Định hướng nhiệm vụ và giải pháp cơ bản trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

(1Quan điểm của Đảng và nghị quyết của Quốc hội về phát triển KTXH vùng DTTSMN.

Phát triển KTXH vùng DTTSMN là một nhiệm vụ mang tính chiến lược, được xác định trong các văn kiện của Đảng các giai đoạn vừa qua. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, cùng phát triển. Quan tâm phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn; tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 2030”… “Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới9. Việc thực hiện những nhiệm vụ trên kết hợp đồng thời “Xử lý hài hòa các vấn đề dân tộc, tôn giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các “điểm nóng”10.

Trên tinh thần đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 và Nghị quyết 120/2020/QH 14 phê duyệt Đề án tổng thể và Chương trình mục tiêu quốc gia về “Phát triển KTXH vùng DTTSMN giai đoạn 2021-2030” gồm một số định hướng:

Một là, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập so với bình quân chung của cả nước; giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn; quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KTXH đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển.

Hai là, phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện rõ rệt đời sống của Nhân dân; nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người DTTS; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS đi đôi với xóa bỏ các tập quán lạc hậu; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em.

Ba là, tiếp tục xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an ninh biên giới quốc gia; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.

Đây là nền tảng định hướng chính sách dân tộc quan trọng của nhà nước nhằm tạo nên bước chuyển mạnh mẽ cho vùng DTTSMN trong giai đoạn phát triển mới, gắn kết nhiệm vụ phát triển KTXH với việc bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

(2Một số nhiệm vụ, giải pháp ưu tiên phát triển KTXH gắn với bảo đảm an ninh, trật tự vùng DTTSMN.

Bên cạnh việc thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển KTXH mang tính tổng thể để đạt được mục tiêu định hướng trên tinh thần Nghị quyết số 88/2019/QH14 và Nghị quyết 120/2020/QH 14 của Quốc hội, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Tập trung đẩy mạnh các hoạt động phát triển kinh tế và giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Trong đó, chú trọng nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất nông, lâm nghiệp, chuyển đổi lao động sang lĩnh vực phi nông nghiệp nhằm bảo đảm sinh kế và thu nhập cho người dân, góp phần giảm nghèo. Xây dựng chính sách ưu tiên bảo vệ và bảo đảm việc làm đối với nhóm lao động trong khu vực phi chính thức, nhất là đối với lao động là người DTTS ở nông thôn, lao động di cư tự do làm theo vụ việc, thời vụ tại các vùng đô thị, các vùng kinh tế phát triển nhằm tăng cường tính bền vững việc làm. Đây là nhóm đối tượng chịu nhiều rủi ro về điều kiện môi trường làm việc, thu nhập và thiếu tính ổn định hơn so với khu vực lao động chính thức.

Sớm hoàn thành việc đo đạc, phân loại, xác định các ranh giới rừng, đất rừng, nhất là với các nơi còn chồng lấn, tranh chấp. Đẩy mạnh việc thực hiện giao khoán rừng, đất rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn theo nguyên tắc cùng chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và cùng hưởng lợi. Đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp gắn với giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiếu đất11. Quản lý, kiểm soát và xử lý kịp thời các “điểm nóng” có tính phức tạp, nhất là các vụ việc đã kéo dài liên quan đến đất đai, rừng, thu hồi đất; tập trung giải quyết dứt điểm vấn đề đất đai có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là khu vực miền núi phía Bắc, Tây Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.

Chú trọng công tác văn hóa, khai thác và phát huy những điểm thuận lợi, tích cực trong phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc phục vụ cho mục đích phát triển. Đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các DTTS kết hợp với các chương trình phát triển kinh tế, phát triển du lịch; tăng cường quảng bá, giới thiệu đầy đủ bản sắc văn hóa của từng dân tộc ra công chúng. Hình thành nên sức mạnh văn hóa trong nội tại các cộng đồng dân tộc để chống lại ảnh hưởng, tác động của văn hóa ngoại lai, tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch. Xử lý tốt các vấn đề trong đời sống văn hóa, tinh thần vùng đồng bào dân tộc như: xóa bỏ từng bước một số tập tục lạc hậu; ngăn ngừa quá trình biến đổi văn hóa gốc làm mất đi giá trị truyền thống; hạn chế quá trình thay đổi tín ngưỡng sang tôn giáo ở một số vùng.  

Đối với khu vực biên giới, nơi có đông đồng bào có mối quan hệ đồng tộc, đồng tôn với đồng bào các nước bạn, chính quyền địa phương và lực lượng an ninh cần nắm chắc tình hình, quản lý tốt việc đi lại làm ăn, thăm thân, hôn nhân và quản lý lao động qua biên giới. Tập trung đầu tư mạnh để phát triển KTXH các xã vùng biên giới, trong đó có việc hình thành những khu, cụm kinh tế-quốc phòng tạo nên bước phát triển rõ rệt, tạo thêm nhiều việc làm để người dân an tâm và an cư. Tăng cường công tác phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, lao động trái phép qua biên giới; trấn áp các loại tội phạm như buôn bán ma túy, mua bán người, xâm phạm an ninh biên giới,…

Hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý nhằm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng về đầu tư và cơ hội phát triển đối với các vùng, miền, các cộng đồng dân tộc, nhất là đối với các dân tộc còn có nhiều khó khăn và khó khăn đặc thù, giảm dần khoảng cách chênh lệnh về phát triển KTXH và đời sống nhân dân, tạo nên sự đồng thuận trong nội bộ từng dân tộc, cũng cố đoàn kết xã hội và đoàn kết các dân tộc. Tăng cường sự tham gia của người dân trong hoạt động quản lý nhà nước ở địa phươngmở rộng các hình thức dân chủ phù hợp để đồng bào tham gia hiệu quả hơn vào quá trình tổ chức thực hiện chương trình, chính sách, các dự án cụ thể trên nguyên tắc 5 biết “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Duy trì và phát huy các yếu tố tích cực của thiết chế tổ chức truyền thống, tạo liên kết cộng đồng, nhóm dân cư, dân tộc; thúc đẩy ý thức tự lực, tự cường vươn lên của các cá nhân và cộng đồng DTTS.

Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, chú trọng lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ người dân tộc, nhất là cán bộ tại chỗ. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận, công tác thông tin, tuyên truyền ở vùng đồng bào DTTS để không ngừng củng cố vững chắc niềm tin của đồng bào với Đảng, Nhà nước. Kết hợp công tác vận động quần chúng với công tác nghiệp vụ của lực lượng vũ trang ở vùng đồng bào DTTS. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa lực lượng vũ trang với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ở vùng đồng bào DTTS, trong đó chú trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự.

Chú thích:
1. Có 6 dân tộc đông trên một triệu người như: Tày, Thái, Mường, Khmer, Mông, Nùng và cũng có 5 dân tộc số dân ít dưới một nghìn người như: Si La, Pu Péo, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm.

2. Cư trú trên địa bàn 51/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 548 đơn vị cấp huyện và 5.266 đơn vị cấp xã.
3. Dân tộc Khmer, Chăm, Mông. 
4,5. Báo cáo của Chính phủ trong Đề án Tổng thể phát triển KTXH vùng DTTS.
6,9. Báo cáo KTXH, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII.
7. Chỉ đạt từ 5-20% tùy dân tộc – Thống kê điều tra 53 DTTS, Tổng cục Thống kê, 2019.
8. Chủ yếu các dân tộc ít người, dân tộc sinh sống ở vùng núi cao như: Mông, Khơ mú, Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao v.v.
10. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
11. Theo báo cáo của Chính phủ năm 2020, hiện còn hơn 300.000 hộ đồng bào thiếu đất.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo số 718/BC-HĐDT14, ngày 18/10/2018 của Hội đồng dân tộc.

2. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt NamDangcongsan.vn.
3. Đề tài cấp Nhà nước, 2020,“Quản lý xung đột xã hội và điểm nóng chính trị-xã hội vùng DTTS nước ta hiện nay” mã số: CTDT.13.17/16-20.
4. Đề tài cấp Nhà nước, 2014, “Những vấn đề mới trong quan hệ dân tộc và định hướng chính sách dân tộc ở nước ta”, mã số: KX.04.18/11-15.
5. Tổng cục Thống kê, 2020, “Điều tra thực trạng phát triển kinh tế-xã hội 53 dân tộc thiểu số và miền núi”.
6. Đề tài cấp Bộ, 2016, “Nghiên cứu đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về công tác dân tộc”.
7. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) tại Hội nghị Trung ương về công tác dân tộc.
8. Bàn giải pháp ổn định dân di cư tự do. http//cand.com.vn, ngày 09/12/2018.
 TS. Nguyễn Lâm Thành
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội