(Quanlynhanuoc.vn) – Xu thế thời đại và hội nhập quốc tế sâu rộng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước ta hiện nay đã và đang tác động đến phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Vấn đề Đảng cầm quyền, lãnh đạo vẫn còn nhiều tranh luận trong lý luận và thực tiễn về địa vị, tính chính danh, nội dung, năng lực, phương thức lãnh đạo, điều kiện lãnh đạo… cũng như các mối quan hệ, tương tác giữa các thành tố thuộc hệ thống chính trị. Bài viết tập trung phân tích, đánh giá thực trạng về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; phân tích bối cảnh, yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cụ thể về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện mới.
Thực tiễn về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thời gian qua
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, phương thức lãnh đạo (PTLĐ) của Đảng đối với Nhà nước được xây dựng và đổi mới trên cơ sở nhất quán những quan điểm: trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội, Đảng là người lãnh đạo, Nhà nước là người quản lý, Nhân dân là người làm chủ. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, nhưng là một bộ phận của hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo Nhà nước hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Đảng không đứng trên Nhà nước, trên pháp luật. Trong Nhà nước và trong xã hội, mọi quyền lực đều là của dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Việc đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phát huy vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong quản lý kinh tế – xã hội và mọi mặt của đời sống xã hội; đồng thời, phát huy vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm và tăng cường quyền làm chủ của Nhân dân, hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Đảng lãnh đạo toàn diện Nhà nước, chủ yếu trên các nội dung: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp, pháp luật và công tác kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước. Kết quả về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thời gian qua cụ thể như sau:
(1) Trong quá trình lãnh đạo Nhà nước, Đảng ta có nhiều chủ trương, nghị quyết đúng đắn, cách mạng, nhất là sau hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như: Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”; Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) “Về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế”…, trong đó nhấn mạnh tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về đất đai; phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế sâu rộng; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, một số chủ trương, chính sách chưa được khảo sát, tổng kết, đánh giá thật sát với thực tiễn, chưa lãnh đạo tốt việc tổ chức thực hiện nên kết quả đạt được còn hạn chế, có một số luật còn những điểm chưa phù hợp, chồng chéo, trùng lặp, khó thực hiện, cần sớm sửa đổi, bổ sung, như: Luật Đất đai, Bộ luật Hình sự,…
(2) Về lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức thời gian vừa qua có nhiều chuyển biến rõ rệt. Tổ chức bộ máy và phương thức quản lý của Nhà nước có nhiều đổi mới, nhất là trong lĩnh vực quản lý kinh tế – xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Nhà nước tập trung vào xây dựng hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách, quản lý vĩ mô bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các định mức, tiêu chuẩn, không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của doanh nghiệp, giá cả thị trường, hoạt động của các tổ chức xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, phù hợp với thông lệ quốc tế, với các điều ước mà Việt Nam đã ký với các tổ chức và các nước trên thế giới. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng các hình thức sở hữu, kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; việc xã hội hóa, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào cung ứng các dịch vụ công như: giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa, tư vấn pháp luật… đã mở rộng, thu hút sự tham gia tích cực của người dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong các lĩnh vực này.
Quốc hội, Chính phủ có rất nhiều đổi mới cả về tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động, tập trung vào xây dựng thể chế, quản lý vĩ mô, quyết định những vấn đề lớn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Lĩnh vực tư pháp thực hiện nhiều đổi mới tổ chức và hoạt động theo chiến lược cải cách tư pháp để nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, bảo vệ quyền, lợi ích của Nhân dân. Đội ngũ cán bộ cấp chiến lược được quan tâm xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức; chất lượng cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên;…
Những đổi mới trong quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã phát huy dân chủ, quyền làm chủ, sức mạnh của Nhân dân, tạo ra những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp; thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện;…
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung còn một số hạn chế và bất cập. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi”1. Cùng với đó, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cũng như thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể lãnh đạo, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức đảng với người đứng đầu cơ quan nhà nước chưa thật rõ ràng và thống nhất. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong bộ máy nhà nước có một số mặt chưa đáp ứng yêu cầu; tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu chưa cao, tác phong, lề lối làm việc thiếu chuyên nghiệp; thậm chí, một số cán bộ, công chức suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống, cửa quyền, tham nhũng, hách dịch, vi phạm pháp luật. Cải cách hành chính trong Đảng còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.
(3) Việc lãnh đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, Hiến pháp à pháp luật có nhiều tiến bộ. Sau khi có nghị quyết của Đảng, các cấp ủy đã tích cực chỉ đạo, tuyên truyền, phổ biến kịp thời đến các cấp chính quyền để xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện. Nhiều đề án, dự án được xây dựng và triển khai đồng bộ, hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập từ việc thể chế hóa, cụ thể hóa nội dung các nghị quyết, có nhiều chính sách thiếu đồng bộ, chưa kịp thời, đặc biệt là thiếu cân đối nguồn lực để thực hiện. Nhiều cấp ủy còn chậm xây dựng chủ trương huy động nguồn lực và phân phối nguồn lực nên kết quả thực hiện các nghị quyết của Đảng không cao nên dẫn đến công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật đến người dân còn yếu, chưa chuyển biến được nhận thức của Nhân dân để thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong cuộc sống2.
(4) Việc lãnh đạo công tác kiểm tra được Trung ương và các cấp ủy luôn quan tâm thực hiện. Những năm qua, Đảng và Nhà nước tập trung đẩy mạnh việc kiểm tra trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, từ đó, đưa ra xét xử, kỷ luật một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả cán bộ cấp cao, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Song bên cạnh đó, vẫn còn một số cấp ủy chưa thường xuyên kiểm tra kết quả, hiệu quả việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, như chậm sơ kết, tổng kết, đánh giá theo quy định của Trung ương. Cá biệt, có địa phương vẫn để xảy ra tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” vì sợ đụng chạm, mất lòng, mất phiếu bầu3…
Một số giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Bối cảnh và yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước
Thứ nhất, bối cảnh quốc tế và khu vực
(1) Tình hình thế giới đang trở nên ngày càng phức tạp hơn so với trước đây. Báo cáo Chính trị Đại hội XIII có nhận định mới: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường chính trị, anninh quốc tế”4, đồng thời, “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,… tiếp tục diễn biến phức tạp”5.
(2) Sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh mới của hội nhập, Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của thế giới, ranh giới giữa đối nội và đối ngoại sẽ lu mờ dần, những sự kiện xảy ra ở khu vực và toàn cầu sẽ tác động tới trong nước trực tiếp và gián tiếp, nhanh và bất ngờ hơn. Do đó, đòi hỏi phải đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, để từ đó có sự nhận thức đúng đắn về thời đại, nắm bắt kịp tình hình, nhận diện thời cơ, thách thức, không chỉ đối với bên ngoài, bên trong mà đặc biệt quan trọng là mối liên kết, tác động qua lại giữa đối nội và đối ngoại.
(3) Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, nhất là đại dịch Covid-19 đã làm bùng phát cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, để lại những hậu quả sâu rộng và lâu dài.
(4) Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là quá trình chuyển đổi số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc.
Thứ hai, bối cảnh trong nước
(1) Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị Việt Nam ngày càng được tăng cường. Xuất phát từ đặc điểm hệ thống chính trị của Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, vai trò tác động của đảng cầm quyền đối với tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước có sự khác biệt với nhiều nước, mà chủ yếu và trước hết là ở tính độc lập tương đối của tổ chức này. Trong điều kiện hiện nay, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tiếp tục là nhiệm vụ then chốt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người… đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị”6. Do vậy, tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải tiếp tục được đổi mới mạnh mẽ để tạo sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị. Các định hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, không chỉ phải bám sát các chủ trương, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng mà còn phải góp phần thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới trong Đảng.
(2) Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Qua hơn 35 năm đổi mới, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, đánh dấu giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới – Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Tuy nhiên, chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực và hiệu quả hoạt động của Nhà nước;… Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị và chú trọng nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Định hướng chung là: “Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”7.
(3) Yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam. Xuất phát từ những chuẩn mực chung của nền quản trị quốc gia hiện đại, Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 đã nêu rõ: Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành8. Chính vì vậy, đặt ra vấn đề cần xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam phải tiếp tục được đặt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng lãnh đạo và là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Từ những phân tích nêu trên, việc đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước cần thực hiện các yêu cầu sau: Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không được bao biện, làm thay Nhà nước. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội, nhưng không xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải kết hợp chặt chẽ với đổi mới phương thức hoạt động của Nhà nước, đổi mới tổ chức bộ máy gắn với việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên của Đảng, Nhà nước. PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước phải thường xuyên đổi mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn công tác lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đồng thời, kết hợp chặt chẽ việc đổi mới phương thức hoạt động của Nhà nước, của Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội, tạo nên một sự đổi mới đồng bộ trong cả hệ thống chính trị nhằm thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đề xuất một số giải pháp cụ thể
Một là, nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ”.
Với vai trò, trách nhiệm của Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng lãnh đạo để định hướng, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, hướng tới xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng lãnh đạo để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; Nhà nước quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả bằng pháp luật. Đảng lãnh đạo để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, khai thác và phát huy có hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh của đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng thành các chính sách, pháp luật, các chương trình, kế hoạch hoạt động và quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện quản lý nhà nước nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự quản lý của Nhà nước không trái với các chủ trương, đường lối, nghị quyết, quy định của Đảng; đồng thời, cũng không hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Sự quản lý của Nhà nước, một mặt nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, quan điểm chính trị của Đảng; mặt khác bảo đảm dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch mọi hoạt động trong đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý cũng đều nhằm mục tiêu thực thi quyền làm chủ của Nhân dân. Nhân dân làm chủ vừa là một thành tố không thể tách rời trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, vừa là mục tiêu cao nhất khi triển khai cơ chế đó trong thực tiễn. Sợi dây xuyên suốt, chất keo “kết dính”, yếu tố bảo đảm duy trì một cách tự nhiên sự vận hành và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong cơ chế vận hành tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam chính là: ở sự thống nhất trong mục tiêu, lý tưởng của Đảng, mục tiêu lãnh đạo, quản lý của Nhà nước; ở bản chất của Đảng và Nhà nước; ở đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; ở mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Hai là, bảo đảm sự đồng bộ giữa đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và đổi mới tổ chức nhà nước
Đây là một giải pháp đặc biệt của toàn bộ quá trình cải cách thể chế ở nước ta. Cần bảo đảm sự đồng bộ trong đổi mới PTLĐ của Đảng đối với bộ máy nhà nước, đối với tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương. Bộ máy nhà nước nói chung và bộ phận cấu thành của Nhà nước phải tiếp tục được đổi mới mạnh mẽ để tạo sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị. Cụ thể như sau:
– Về Quốc hội: Sự đồng bộ giữa đổi mới Quốc hội và đổi mới Chính phủ là yếu tố có ý nghĩa quan trọng tạo nên hiệu quả của đổi mới nhà nước trong các điều kiện phát triển mới của đất nước. Sự đồng bộ giữa đổi mới Quốc hội và đổi mới Chính phủ là yếu tố có ýnghĩa quan trọng tạo nên hiệu quả của đổi mới nhà nước trong các điều kiện phát triển mới của đất nước. Mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau trong đổi mới Quốc hội và Chính phủ đòi hỏi các định hướng, chủ trương và giải pháp đổi mới trong nhánh quyền lực nhà nước ở tầm cao nhất phải luôn được triển khai đồng bộ trong một thể thống nhất của chiến lược cải cách bộ máy nhà nước. Do vậy, các giải pháp chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải gắn liền với định hướng đổi mới Quốc hội.
Đại hội XIII của Đảng đã xác định: tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, tăng tính chuyên nghiệp, hiệu quả và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân.
– Về Chính phủ: dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, Chính phủ luôn là một yếu tố chi phối, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Sự đổi mới Quốc hội cũng là một nhân tố thúc đẩy tạo động lực cho bảo đảm hiệu quả của đổi mới Chính phủ, là một yếu tố góp phần bảo đảm hiệu quả của đổi mới Chính phủ. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII đã xác định: “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”9.
Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Việc cải cách các thể chế hành chính, chuyển từ một nền hành chính quản lý sang một nền hành chính phục vụ, không chỉ xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân mà còn là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế thị trường và một xã hội dân chủ, tất cả vì con người, phục vụ con người. Quán triệt tinh thần này, chính phủ giai đoạn này luôn luôn hướng tới mục tiêu của một Chính phủ kiến tạo, phát triển.
– Về cơ quan tư pháp: cải cách hệ thống tư pháp tác động lớn đến tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. Cùng với cải cách tư pháp, các cải cách của nền hành chính quốc gia cũng tác động mạnh mẽ đến tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, thúc đẩy sự đổi mới các mối quan hệ giữa hệ thống hành chính nhà nước và hệ thống tư pháp. Do vậy, trước yêu cầu mới của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các tổ chức và cá nhân, cần đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp trong chiến lược cải cách bộ máy nhà nước đồng bộ với việc nghiên cứu, ban hành: Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến 2045, như đã được xác định tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
– Về chính quyền địa phương: tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội ở các cấp.
Ba là, nâng cao năng lực của Nhà nước trong thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng.
Trong đổi mới PTLĐ của Đảng thì đổi mới PTLĐ đối với Nhà nước là trọng yếu nhất. Bởi vì, vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là tổ chức kiến tạo; đồng thời, Nhà nước còn là tổ chức đề ra chính sách quốc gia và tổ chức thực hiện những chính sách đó. Vì vậy, Nhà nước có trách nhiệm thể chế, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Trong xã hội nước ta hiện nay, quyền lực tối cao đều thuộc về Nhân dân. Nhà nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, đều có trách nhiệm phục vụ Nhân dân, làm đầy tớ cho Nhân dân. Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện theo chức năng của mình, chức năng quản lý xã hội với hệ thống pháp luật được thể chế hóa từ đường lối, chủ trương của Đảng và từ sự ủy quyền của Nhân dân, từ quyền làm chủ của Nhân dân. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nói chung và Nhà nước nói riêng thông qua hệ thống bộ máy tổ chức của Đảng trong các cơ quan, bộ máy tổ chức của Nhà nước. Với vị trí, vai trò cầm quyền, theo chức năng, nhiệm vụ, các tổ chức đảng ở trong bộ máy Nhà nước đều có trách nhiệm lãnh đạo, nhất là đối với công tác cán bộ, vì Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ của toàn hệ thống chính trị. Tổ chức đảng các cấp có trách nhiệm giới thiệu nhân sự của mình để các tổ chức đó bầu cử hoặc bổ nhiệm vào các cơ quan, tổ chức nhà nước.
Bốn là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược cho các cơ quan nhà nước.
Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thông qua đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy và các đảng viên trong các cơ quan đó. Đảng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo đối với việc phát huy dân chủ trong bầu cử ở các cơ quan dân cử, các chức vụ trong bộ máy của nhà nước. Đảng lãnh đạo các cuộc bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, trước hết là định hướng tiêu chuẩn và cơ cấu đại biểu hợp lý, coi trọng chất lượng là chính, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Đảng lựa chọn, giới thiệu những đảng viên ưu tú, tiêu biểu được đông đảo Nhân dân tín nhiệm để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương đưa vào danh sách ứng cử, đề cử. Từ đó, để các cơ quan chức năng bổ sung cơ chế, quy trình bảo đảm cho Nhân dân thật sự có quyền lựa chọn, giới thiệu, bầu cử những người có đức, có tài là đại biểu xứng đáng của mình. Đảng thống nhất quản lý công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của cá nhân thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Trong tình hình hiện nay, phải sớm thực hiện đột phá về đổi mới công tác đánh giá cán bộ, nhất là người đứng đầu các cơ quan nhà nước ở các cấp, các ngành theo tiêu chí, sản phẩm và hiệu quả chỉ đạo điều hành theo chức trách, nhiệm vụ chính trị được giao,… Việc đánh giá người đứng đầu cơ quan nhà nước ở các cấp, các ngành phải được thực hiện nền nếp từng năm, từng nhiệm kỳ và được công khai rộng rãi trong cơ quan, đơn vị nhà nước. Đảng cần xây dựng, ban hành quy chế, quy định về trọng dụng nhân tài (trên tất cả các lĩnh vực) và lựa chọn đúng, bố trí đúng người đứng đầu chính quyền các cấp, các ngành. Đây được coi là biện pháp “đột phá” để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đánh giá đúng, chọn đúng, bố trí đúng người đứng đầu chính quyền, cần phải quy định rõ trách nhiệm của người giới thiệu, tiến cử trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ hiện nay.
Năm là, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và giữa các tổ chức của hệ thống chính trị; thể chế hóa vai trò của Nhân dân kiểm tra, giám sát các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức10.
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước, quy định của Đảng và các tổ chức chính trị – xã hội bảo đảm ngăn ngừa, phát hiện, loại bỏ những việc làm sai trái của cơ quan, cán bộ, công chức trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực được giao, bảo đảm cho quyền lực được thực hiện đúng. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định của Đảng và Nhà nước theo hướng đề cao hơn trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, vừa phải tôn trọng nguyên tắc tập thể, vừa phải phát huy vai trò cá nhân người đứng đầu; khuyến khích, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng.
Đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, thanh tra, kiểm toán, điều tra, xét xử để phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng quyền lực. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và tổ chức thực hiện thành nền nếp quy chế giám sát (trực tiếp và gián tiếp) của Nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp; cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội; việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học; cơ chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.