Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

(Quanlynhanuoc.vn) – Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có sự kế thừa và phát triển qua các kỳ đại hội của Đảng. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định và làm rõ hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là một trong các mối quan hệ cơ bản cần nhận thức và giải quyết đúng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, nhằm góp phần hiện thực hóa mục tiêu: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”1.
Ảnh minh họa (internet)
Quan điểm Đại hội XIII của Đảng về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kế thừa các kỳ đại hội của Đảng, Đại hội XIII đã củng cố, làm sâu sắc và nâng cao toàn diện nhận thức về mô hình phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

KTTT ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường, trong đó Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh. Việc định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất – kinh doanh và bảo vệ môi trường được thực hiện thông qua sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước. Ngoài ra, để hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường, Đảng ta đã chủ trương thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội từng bước, từng chính sách phát triển, phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong phát triển KTXH.

Các kỳ đại hội trước đây chỉ đề cập mối quan hệ Nhà nước với thị trường, đến Đại hội XIII đã mở rộng và làm rõ hơn mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Theo đó, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp (DN), các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động. Trong mối quan hệ này, vai trò của Nhà nước thể hiện trong việc điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng – an ninh.

Để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển KTXH, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường thì kinh tế nhà nước tiếp tục được xác định là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng. Nhà nước sử dụng các nguồn lực kinh tế phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.

Trong kinh tế nhà nước, các DN nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. DN nhà nước lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế, hoạt động theo cơ chế thị trường. Đây là sự khẳng định cần thiết về vai trò của DN nhà nước trong kinh tế nhà nước, phù hợp với các nguyên tắc và cam kết của Việt Nam khi được các thành viên WTO và các đối tác thế giới công nhận là nền KTTT trong quá trình hội nhập quốc tế, nhất là trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.

Bên cạnh đó, Nhà nước có vai trò chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Tăng cường đào tạo cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Nâng cao năng lực dự báo và ngăn chặn các tác động tiêu cực của KTTT, như: chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh thiếu lành mạnh, phân hóa giàu nghèo và coi nhẹ các vấn đề y tế, môi trường, xã hội… Đồng thời, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh, tuân thủ các cam kết, quy luật và quy trình kinh tế trong hội nhập quốc tế.

Trong quan hệ kinh tế quốc tế, Nhà nước đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới. Tích cực, chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ DN và thị trường trong nước…

Trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu phát triển mới, đặc biệt nhiều ngành nghề mới ra đời cần phải có môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển. Đảng ta đã nhấn mạnh cần thiết phải tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế; đồng thời, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.

Đối với yếu tố thị trường, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của DN, thanh lọc những DN yếu kém; đồng thời khẳng định phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản. Đây là vấn đề mà những năm qua, công tác quản lý còn lúng túng, nhất là xác định giá cả đối với các dịch vụ, trong đó có dịch vụ công.

Về thị trường hàng hóa, dịch vụ được phát triển theo các phương thức tổ chức giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Thị trường khoa học và công nghệ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm… được phát triển đồng bộ trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Thị trường bất động sản; thị trường sử dụng đất được phát triển và quản lý chặt chẽ. Phát triển thị trường lao động thông qua cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ KTTT. Đối với các loại thị trường này, cần xử lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc phòng – an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.

Các tổ chức xã hội đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác. Đồng thời, đóng vai trò cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật…

Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng “Nhà nước mạnh, thị trường hiệu quả và xã hội năng động, sáng tạo”

Một là, góp phần hoàn thiện vai trò quản lý nhà nước (QLNN) theo hướng “Nhà nước mạnh”.

Từng bước làm rõ vai trò chủ đạo, dẫn dắt của kinh tế nhà nước, để kinh tế nhà nước dần trở thành công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển KTXH, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường, giữ vững định hướng XHCN.

Giải quyết mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường luôn là vấn đề mà sau những năm đổi mới chúng ta đã gặp rất nhiều lúng túng, khó khăn trong quá trình vận hành kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Theo đó, hai lực lượng, hai bộ phận của kinh tế nhà nước được sử dụng để thực hiện vai trò QLNN về kinh tế là các nguồn lực kinh tế của Nhà nước (đất đai, tài nguyên, nguồn vốn, tài sản thuộc sở hữu nhà nước) và hệ thống các DN nhà nước. Cả hai bộ phận này, hai lực lượng này, khi được sử dụng, đều vừa phải theo cơ chế vận hành chung của nền kinh tế là cơ chế thị trường, vừa phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của đất nước và từng lĩnh vực quan trọng để dẫn dắt nền kinh tế theo đúng định hướng. Đây là những biểu hiện cơ bản nhất trong giải quyết mối quan hệ giữa kế hoạch với thị trường nhằm thực hiện tốt chức năng QLNN về kinh tế.

Trong nền KTTT, việc phân bổ các nguồn lực kinh tế của Nhà nước cũng phải được thực hiện thông qua thị trường, tức là phải thực hiện qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia, cạnh tranh của các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặt khác, việc sử dụng các nguồn lực này cũng phải phù hợp với điều kiện thực tế của từng ngành, từng lĩnh vực và từng địa phương, nhằm góp phần vào thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể.

Đảng ta đã xác định, các DN nhà nước đầu tư, phát triển tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng đối với đất nước, khu vực các DN tư nhân, DN có vốn đầu tư nước ngoài không được làm, không muốn làm, không làm được. Đồng thời, các DN nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Điều này cũng làm sáng tỏ hơn về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không phải là chiếm tỷ trọng lớn, lấn lướt so với các thành phần kinh tế khác, mà chính là nắm giữ các ngành, các lĩnh vực then chốt, địa bàn trọng yếu, quan trọng đối với đất nước. Bên cạnh đó, những quan điểm, chủ trương của Đảng về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bổ sung thêm và làm rõ hơn chức năng nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước trong nền KTTT.

Ngoài ra, Nhà nước còn tạo khuôn khổ, hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các chủ thể sản xuất – kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Nền KTTT ở nước ta có sự tham gia của các chủ thể sản xuất – kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Mỗi chủ thể, mỗi DN đều có mục đích sản xuất kinh doanh khác nhau, thậm chí cạnh tranh gay gắt với nhau, nếu không có khuôn khổ, hành lang pháp lý thuận lợi, thống nhất có thể phát sinh các mâu thuẫn, thậm chí xung đột giữa các chủ thể này.

Trên cơ sở “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 – 2030” tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường”2. Đây là cơ sở để Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, xây dựng các tiêu chuẩn, định mức, hoàn thiện thể chế, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển KTXH. Theo đó, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến 2025, định hướng đến năm 2030; Chiến lược quốc gia về cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030; Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035;… Những chiến lược này góp phần hình thành, ổn định và định hướng cho hoạt động của các loại thị trường, các chủ thể sản xuất – kinh doanh, các tổ chức xã hội trong nền KTTT.

Hai là, góp phần hoàn thiện thể chế nhằm phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường theo hướng “thị trường hiệu quả”.

QLNN trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của cơ chế thị trường và sự điều tiết của thị trường, cho phép thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản, thu hẹp những loại hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước quyết định giá.

Việc phát triển đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt các thị trường theo chuẩn mực của nền KTTT đầy đủ, hiện đại, hội nhập quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong phát triển KTXH. Phát triển thị trường với các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực cho sản xuất – kinh doanh và từng bước quản lý chặt chẽ thị trường đất đai, bất động sản. Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính, tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm trên nền tảng ứng dụng công nghệ số, thích ứng kịp thời với sự phát triển nhanh chóng về công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ trên cơ sở phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học – công nghệ.

Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ chức, giao dịch văn minh, hiện đại là một trong những nội dung quan trọng để đất nước tích cực, chủ động hội nhập vào kinh tế thế giới. Phát triển thị trường dịch vụ pháp lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động hỗ trợ và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và DN… Ngoài ra, việc phát triển thị trường lao động gắn với cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo đảm an sinh xã hội nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế. Điều này thể hiện rõ nhất trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 tại Việt Nam từ đầu năm 2020 đến nay. Trước ba làn sóng của dịch Covid-19, Đảng và Nhà nước cùng các cấp, ngành, địa phương đã hành động kịp thời và kiểm soát tình hình các vùng dịch, góp phần quan trọng vào bảo đảm cho thị trường trong nước được lưu thông thuận lợi, ổn định đời sống và hoạt động sản xuất của Nhân dân. Đây là biểu hiện rõ nét về tính định hướng XHCN và tính ưu việt trong mô hình KTTT ở nước ta.

Ba là, phát huy vai trò“năng động, sáng tạo” của các tổ chức xã hội trong khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường và giải quyết các vấn đề xã hội.

Các tổ chức xã hội có vai trò liên kết, phối hợp hoạt động và giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên, hội viên. Mặt khác, cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của các thành viên, hội viên nhằm cân bằng và hài hòa lợi ích của các thành viên, hội viên.

Các tổ chức xã hội có vai trò liên kết, phối hợp hoạt động và giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên, hội viên. Mặt khác, còn cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động nhằm cân bằng hài hòa lợi ích của các thành viên, hội viên. Bằng những hoạt động này, các tổ chức xã hội có vai trò và tác động nhất định tới nền KTTT, như: sản xuất, lưu thông, trao đổi, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ… từ đó, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động gian lận, tình trạng độc quyền, đầu cơ, thao túng, cạnh tranh không lành mạnh, làm méo mó thị trường.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam góp phần hình thành các cơ chế tham gia giám sát, phản biện xã hội trong nền KTTT định hướng XHCN, bảo đảm tiếng nói của các giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội được chuyển tải một cách công bằng đến các cơ quan hoạch định chính sách, tránh để một “nhóm lợi ích” chi phối thông tin “đầu vào”. Đối với các hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tham gia vào cung cấp thông tin về giá cả, mẫu mã, chất lượng sản phẩm để hạn chế tình trạng bất cân xứng thông tin giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng hoặc tham gia điều tiết quan hệ cung – cầu trên thị trường.

Ngoài ra, vai trò của các tổ chức xã hội còn thể hiện trong việc tham gia đóng góp ý kiến, phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước để cơ chế, chính sách của Nhà nước được điều chỉnh, bổ sung kịp thời, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, lợi ích của Nhân dân, không bị “lợi ích nhóm” chi phối nền kinh tế và các chính sách kinh tế. Bảo đảm luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước được thực thi nghiêm túc, đúng đắn, có hiệu quả, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí thông qua việc giám sát hoạt động của các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi chức năng, nhiệm vụ.

Những nhận thức mới, đầy đủ và sâu sắc hơn về mô hình phát triển KTTT định hướng XHCN của Việt Nam, về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội góp phần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đây là cơ sở quan trọng để phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại để xây dựng thành công mô hình KTTT định hướng XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Vấn đề này còn có ý nghĩa quan trọng, tạo ra cơ chế bảo đảm gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và người dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới.

Nhà nước sử dụng các lực lượng kinh tế tham gia vào thị trường và bằng công tác tuyên truyền, vận động, thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể kinh tế, các tổ chức xã hội. Thông qua các lực lượng kinh tế, Nhà nước tác động, định hướng, điều chỉnh hoạt động của thị trường và các tổ chức xã hội. Nhà nước thực hiện lắng nghe ý kiến góp ý, phản ánh, phản biện của Nhân dân, các tổ chức xã hội đối với chính sách, quy hoạch, kế hoạch để nắm bắt đúng nhu cầu của xã hội, đúng thực trạng của nền kinh tế, từ đó, kịp thời đề ra các chương trình, kế hoạch, hoàn thiện pháp luật để quản lý có hiệu quả các vấn đề KTXH.

Hoạt động của các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế, sự phản biện của các tổ chức xã hội và Nhân dân còn là cơ sở để Nhà nước điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trong nền KTTT. Bên cạnh đó, việc phân bổ các nguồn lực kinh tế của Nhà nước (đất đai, tài nguyên, nguồn vốn, tài sản của Nhà nước) và hoạt động của DN nhà nước phải được thực hiện trên cơ sở pháp luật (Luật DN năm 2020, Luật Đầu tư năm 2020, Luật Cạnh tranh năm 2018, Luật Đấu thầu năm 2013, Luật Phá sản năm 2014) trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của cơ chế thị trường, cùng với sự giám sát của Nhân dân, các tổ chức xã hội, thông qua đấu thầu cạnh tranh, công khai, minh bạch để các DN nhà nước phải hoạt động sản xuất – kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc mọi thành phần kinh tế khác.

Chú thích:
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 112, 223.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, 2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
3. Hội đồng lý luận Trung ương. Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
4. Nguyễn Xuân Thắng, Nguyễn Viết Thông, Đinh Quang Ty, Lê Minh nghĩa (đồng chủ biên). Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra, Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, 2014.
5. Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Trương Minh Hòa
Học viên cao học Học viện Khoa học xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam