Tư duy lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) –  Từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đến Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, tư duy lý luận định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng được hình thành, từng bước phát triển và ngày càng hoàn thiện. Bài viết phân tích giá trị lý luận trong quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ảnh minh họa (internet).
Đặt vấn đề

Trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều mô hình kinh tế thị trường (KTTT), với nhiều biến thể khác nhau tùy thuộc vào quan niệm, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của mỗi nước. Ở Việt Nam, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về sản xuất hàng hóa, kinh tế hàng hóa và những vấn đề kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời có sự tham khảo kinh nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới vào điều kiện thực tiễn ở nước ta. Trên tinh thần đó, từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội XIII của Đảng, tư duy lý luận về KTTT định hướng XHCN của Đảng Cộng sản ở Việt Nam được hình thành, từng bước phát triển và ngày càng hoàn thiện.

Quan điểm Đại hội XIII của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thứ nhất, bổ sung quan niệm về KTTT định hướng XHCN.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã khẳng định và làm rõ hơn những đặc trưng cơ bản trong mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Điểm nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII là sự củng cố, làm sâu sắc và nâng cao toàn diện hơn nhận thức về mô hình phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Quan niệm trên của Đảng nhấn mạnh đặc trưng của KTTT có tính thời đại. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. KTTT ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Việc định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất – kinh doanh và bảo vệ môi trường được thực hiện thông qua sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước. Ngoài ra, để hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường, Đảng ta chủ trương thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển, phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong phát triển kinh tế – xã hội…

Thứ hai, khẳng định và làm rõ hơn những nét đặc thù quan trọng trong tính định hướng XHCN trong mô hình KTTT.

Sự khẳng định của Đảng trong Đại hội XIII về phát triển KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu cao nhất là vì một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Việc coi xây dựng KTTT định hướng XHCN là một quá trình và việc nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước là cần thiết. Quan điểm này thể hiện sự linh hoạt và vận dụng hiệu quả nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong chỉ đạo, điều hành thực tiễn của Đảng trước mọi biến động nhanh, khó lường của thế giới.

Thứ ba, xác định rõ, đầy đủ hơn vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước (KTNN) trong nền KTTT định hướng XHCN.

Trong KTNN thì các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tập trung vào các lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng – an ninh, hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. DNNN lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp (DN) thuộc các thành phần kinh tế, hoạt động theo cơ chế thị trường, áp dụng quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế, lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu chủ yếu. Đây là sự khẳng định cần thiết về vai trò của DN nhà nước trong KTNN, phù hợp với các nguyên tắc và cam kết của Việt Nam khi được các thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các đối tác thế giới công nhận là nền KTTT trong quá trình hội nhập quốc tế, nhất là trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.

Thứ tư, xác định rõ hơn vai trò của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN.

Nhà nước có vai trò chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Đồng thời, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh, tuân thủ các cam kết, quy luật và quy trình kinh tế trong hội nhập quốc tế. Vai trò quản lý của Nhà nước được nhấn mạnh thông qua việc nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia và tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy hiệu quả hoạt động của DN, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hoạt động của những lĩnh vực, mô hình kinh doanh mới. Nhà nước phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp trong tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ KTTT, giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, Nhà nước đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới. Tích cực, chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ DN và thị trường trong nước…

Thứ năm, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa dịch vụ.

Thị trường khoa học và công nghệ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm… được phát triển đồng bộ trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Thị trường bất động sản, thị trường sử dụng đất được phát triển và quản lý chặt chẽ. Phát triển thị trường lao động thông qua cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ KTTT. Đối với các loại thị trường này, cần xử lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc phòng – an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.

Thứ sáu, nhấn mạnh và làm rõ mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.

Vai trò của Nhà nước thể hiện trong việc điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng – an ninh. Đối với yếu tố thị trường, Đảng ta tiếp tục khẳng định, thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực, huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của DN, thanh lọc những DN yếu kém. Riêng về vai trò của các tổ chức xã hội, được nhấn mạnh về sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên. Các tổ chức xã hội đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác. Đồng thời, các tổ chức này còn đóng vai trò cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật…

Thứ bảy, bổ sung, nhấn mạnh xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền KTTT đầy đủ, hiện đại, hội nhập.

Đại hội XIII chủ trương tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu phát triển mới, đặc biệt nhiều ngành nghề mới ra đời cần phải có môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển. Đảng ta nêu rõ cần thiết phải xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Đồng thời, nhấn mạnh cần thiết phải tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế, đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.

Giá trị lý luận trong quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Một là, tiếp tục bổ sung lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về bước đi, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta.

Ở Việt Nam, định hướng xã hội trong phát triển nền KTTT được thể hiện trong mục tiêu phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, đồng thời là công cụ để xây dựng những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Đây là điểm khác biệt và cũng thể hiện tính ưu việt hơn hẳn về bản chất của KTTT của Việt Nam với KTTT tư bản chủ nghĩa. Quan điểm của Đảng về KTTT định hướng XHCN đã bổ sung thêm lý luận về “khâu trung gian” trong sự phát triển xã hội thời kỳ quá độ ở một nước có xuất phát điểm thấp, bỏ qua chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam. Đồng thời, quan niệm trên có giá trị rất lớn về mặt phương pháp luận trong nhận thức và vận dụng để xác lập mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phù hợp với quá trình lịch sử – tự nhiên.

Hai là, bổ sung thêm cơ sở lý luận về mô hình KTTT định hướng XHCN .

Trong một thời gian dài, Việt Nam duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp nên việc xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN là vấn đề rất mới mẻ và hết sức phức tạp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đó là kết quả một quá trình tìm tòi, thể nghiệm lâu dài, tổng kết thực tiễn thành lý luận, từ chưa đầy đủ đến ngày càng đầy đủ, từ chưa sâu sắc đến ngày càng sâu sắc hơn. Đường lối, quan điểm, chính sách phát triển KTTT định hướng XHCN trong các kỳ Đại hội, đặc biệt là Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện sự kế thừa và phát triển về tư duy, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những bổ sung về mặt luận cứ khoa học, có nhiều nội dung mới, kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Nội dung này được thể hiện trong đường lối, quan điểm, chính sách có tính khái quát cao; vừa có tính tổng kết lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân về phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Ba là, góp phần luận giải những vấn đề cơ bản của KTTT định hướng XHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Đại hội XIII Đảng ta đã xác định rõ, đầy đủ hơn vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế, chú trọng việc gắn kết giữa các thành phần kinh tế trong chỉnh thể nền KTTT. Đây là sự bổ sung quan trọng về mặt lý luận về vai trò của Nhà nước và KTNN trong nền KTTT. KTNN được coi là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Đồng thời, bổ sung thêm lý luận về chức năng quan trọng của KTNN và điểm đặc trưng khác biệt, tiến bộ của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

Bốn là, góp phần tháo gỡ những điểm nghẽn, những vấn đề quan trọng đang cản trở sự phát triển đất nước.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch… góp phần thích ứng nhanh chóng với xu hướng công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT của nước ta còn lúng túng, nhất là xác định giá cả đối với các dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ công. Quan điểm của Đảng về KTTT định hướng XHCN cũng tạo cơ sở lý luận góp phần phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường, khẳng định thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản. Về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, điểm mới nổi bật về mặt lý luận chính là bổ sung thêm nhân tố xã hội trong vận hành nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam so với nhận thức trong các kỳ Đại hội trước đó. Vai trò của yếu tố xã hội được thể hiện ở hỗ trợ, bổ sung, khắc phục các khiếm khuyết các yếu tố nhà nước, thị trường nhằm tạo cơ chế vận hành hoàn chỉnh, đồng bộ.

Năm là, củng cố niềm tin vào mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

Sau hơn 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản ngày nay do tranh thủ được những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại đã không ngừng hiện đại hóa lực lượng sản xuất và điều chỉnh quan hệ sản xuất, thúc đẩy quá trình xã hội hóa và toàn cầu hóa kinh tế, nền KTTT ở một số nước tư bản phát triển đã đạt tới trình độ KTTT hiện đại. Tuy nhiên, KTTT tư bản chủ nghĩa dù đã phát triển đến trình độ hiện đại nhưng trong khuôn khổ phương thức sản xuất và bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể nào khắc phục được những hạn chế và khuyết tật vốn có, đó là tính tự phát, khủng hoảng kinh tế, cạnh tranh đổ vỡ, về xã hội là sự bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo, khuyến khích chủ nghĩa thực dụng, chạy theo lợi ích cá nhân. Sự tương phản trên càng củng cố thêm niềm tin vào mô hình KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

Kết luận

Như vậy, đến Đại hội XIII, tư duy lý luận của Đảng về KTTT định hướng XHCN được hình thành, từng bước phát triển và ngày càng hoàn thiện. Đây là sự kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, cũng chính là sự tìm tòi, đổi mới và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Quá trình đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng ta đã từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Tính đúng đắn, sáng tạo đã và đang được thực tiễn kiểm nghiệm với những thành tựu to lớn sau hơn 35 năm đổi mới.

Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021
2. Hội đồng Lý luận Trung ương. Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
Trương Minh Hòa
Học viên cao học Học viện Khoa học xã hội,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam