Bảo đảm pháp lý về quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Quyền con người, quyền công dân luôn đi kèm hệ thống bảo đảm, bảo vệ. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý để cá nhân, công dân, các tổ chức thực hiện được các quyền tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận. Thực tiễn Việt Nam và các nước trên thế giới cho thấy, bảo đảm bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để quyền con người, quyền công dân được thực hiện. Bài viết giới thiệu khái quát về bảo đảm quyền con người, quyền công dân và một số biện pháp bảo đảm pháp lý về các quyền này.
Ảnh minh họa (internet).
Khái quát bảo đảm pháp lý về quyền con người, quyền công dân

Khái niệm bảo đảm quyền con người, quyền công dân

Quyền con người (QCN) là những giá trị tự nhiên, vốn có của mọi cá nhân, được pháp luật (quốc gia, quốc tế, khu vực) ghi nhận và bảo vệ. Quyền công dân (QCD) là hình thức pháp lý, biểu hiện cụ thể của quyền con người được luật pháp ghi nhận. QCNQCD được quy định thành hệ thống tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có tính chất bắt buộc với mọi quốc gia. Việc tôn trọng, bảo vệ QCNQCD đã trở thành thước đo căn bản về trình độ văn minh của các nước, các dân tộc trên thế giới. Lời nói đầu Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (năm 1966) có khẳng định: “các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ các quyền tự do cơ bản của con người”. Theo đó, việc bảo đảm QCNQCD ở Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” (Điều 3).

QCNQCD là những giá trị mang tính phổ biến, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Nhưng giữa QCNQCD được nhận thức, ghi nhận trong pháp luật và QCNQCD được bảo đảm trong thực tiễn luôn có một khoảng cách nhất định, tùy thuộc vào các điều kiện, tiền đề bảo đảm cho việc thực hiện trên thực tế. Nếu chủ thể cơ bản của QCN là các cá nhân, và trong một số trường hợp là các nhóm người (các nhóm thiểu số về chủng tộc, dân tộc, tôn giáo…) thì chủ thể cơ bản có trách nhiệm bảo đảm, bảo vệ các QCNQCD là Nhà nước, cụ thể là các cơ quan nhà nước cùng những người làm việc trong bộ máy nhà nước. Nhóm này gọi chung là chủ thể nhà nước. Các chủ thể khác cũng có trách nhiệm bảo đảm quyền QCNQCD trong các quan hệ xã hội, bao gồm: các tổ chức, đảng phái, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế, các nhóm cộng đồng, gia đình, cha mẹ và các cá nhân có vị thế liên quan, được gọi chung là chủ thể phi nhà nước.

Bảo đảm pháp lý về quyền con người, quyền công dân

Khoa học pháp lý chia các bảo đảm thực hiện QCNQCD thành hai loại, gồm:

(1) Các bảo đảm chung: bao gồm bảo đảm về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Các bảo đảm này tạo ra nền tảng cho việc thực hiện QCNQCD nhưng về bản chất không có tính chất pháp lý, nó thể hiện khả năng thực hiện tổng thể các quyền, không trực tiếp gắn với việc thực hiện.

(2) Các bảo đảm pháp lý: về nguyên tắc, nhà nước chỉ bảo đảm thực hiện những quyền pháp lý của con người, tức là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Như vậy, chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên mới chuyển thành những QCNQCD có đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật chính là phương tiện để thực hiện sự chuyển hóa đó, có nhiệm vụ biến những nghĩa vụ đạo đức về các quyền tự nhiên thành các các quy tắc cư xử chung do nhà nước ban hành, từ đó xã hội hóa giá trị các quyền tự nhiên của con người, của công dân.

Bảo đảm QCNQCD, mối quan hệ giữa quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân cũng là vấn đề có nhiều tranh luận. Nếu cho rằng, việc luật pháp quốc tế và các quốc gia bảo đảm, cổ vũ các quyền sẽ dẫn đến coi nhẹ trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức, thì đó là góc nhìn thiếu toàn diện. Tuyên ngôn toàn thế giới về QCN năm 1948, quy định tại khoản 1 Điều 29: “Tất cả mọi người đều có những nghĩa vụ với cộng đồng mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển một cách tự do và đầy đủ”. Theo khoản 2 thì mỗi người, trong khi hưởng thụ các quyền và tự do cá nhân đều phải chịu những hạn chế do luật định nhằm bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng các quyền và tự do của người khác. Trên tinh thần đó, các quốc gia tán đồng luật quốc tế về nhân quyền cần nhận thức, thể chế hóa sự cân bằng giữa bảo đảm các quyền và trách nhiệm của các chủ thể quyền. Điều này có tầm quan trọng đặc biệt cả về lý luận và thực tiễn. Nó giúp các cơ quan, tổ chức và cá nhân có cách tiếp cận phù hợp, tránh tuyệt đối hóa các quyền mà coi nhẹ trách nhiệm, nghĩa vụ dẫn đến tâm lý và hành động phiến diện, thậm chí cực đoan trong các vấn đề liên quan đến bảo đảm QCNQCD.

Con người, công dân được công bằng trước pháp luật – được bảo vệ ngang nhau là một yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền. Các bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quyền của con người, của công dân được thể hiện ở:

(1) Được quy định trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong các quy định của các luật, ngành luật trong hệ thống pháp luật thì mới thực hiện được trong thực tế.

(2) Các bảo đảm pháp lý rất đa dạng, phong phú, trước hết là sự ghi nhận các QCNQCD; tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức thực hiện; việc thiết lập cơ chế, bộ máy chuyên trách bảo đảm các QCNQCD…

(3) Bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện QCNQCD gắn với năng lực, nhận thức của mỗi cá nhân về quyền của mình. Để có thể thực hiện QCNQCD thì con người cần hiểu biết về quyền của mình, đồng thời có ý thức thực hiện quyền.

Nếu hiểu biết về QCNQCD của cả người dân và người thực thi công quyền bị hạn chế sẽ dẫn tới một số hệ quả, như: không biết cách tự bảo vệ các quyền hợp pháp của mình; thiếu ý thức trách nhiệm trong thực hiện nghĩa vụ và tất yếu sẽ dẫn đến sự vi phạm các quyền hợp pháp của người khác hoặc của cộng đồng. Đối với các tổ chức, cá nhân thực thi công vụ, thiếu hiểu biết về quyền dẫn đến những hạn chế, sai sót trong xây dựng và áp dụng pháp luật, từ đó tạo ra khoảng cách, mâu thuẫn, gây mất lòng tin của người dân với chính quyền.

(4) Bảo đảm QCNQCD không chỉ dừng lại ở việc bảo đảm cho nhân quyền không bị vi phạm, mà còn tạo ra những điều kiện, cơ chế pháp lý để người dân có thể tham gia vào công việc của Nhà nước. Đó là những bảo đảm cơ bản để hình thành nền tảng các cơ hội cho mọi cá nhân có thể tham gia một cách tự do và bình đẳng vào quá trình hình thành chính sách và thực thi quyết định của Nhà nước.

Một số biện pháp bảo đảm pháp lý về quyền con người, quyền công dân

Thứ nhất, thể chế hóa QCNQCD trong pháp luật.

Các quốc gia tiến bộ trên thế giới ghi nhận vấn đề QCNQCD trong đạo luật gốc là Hiến pháp. Hiến phápghi nhận đầy đủ tất cả QCNQCD có thể có và ngăn chặn sự vi phạm từ mọi chủ thể. Khi các QCNQCD bị vi phạm, cần phải có những biện pháp nhằm trừng trị những chủ thể vi phạm và khôi phục lại những quyền đó, đồng thời cũng nhấn mạnh nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ QCNQCD từ phía Nhà nước. Ghi nhận QCNQCD trong Hiến pháp và thể hiện được các quyền đó phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của quốc gia là vấn đề không đơn giản. Các quy định của Hiến pháp về QCNQCD cần được các luật, ngành luật cụ thể hóa.

Ở Việt Nam, thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền, cho đến nay đã có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về mọi mặt của đời sống, trong đó có nhiều đạo luật trực tiếp điều chỉnh QCNQCD và có những đạo luật riêng cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Việc xây dựng các đạo luật theo nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật; đồng thời phải được tiến hành công khai và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, với sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân và các nhóm đối tượng chịu sự điều chỉnh của văn bản.

Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, các đạo luật và các văn bản hướng dẫn thi hành phải đáp ứng tối đa việc nội luật hóa các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế, đólà: không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, một số quy định của pháp luật hiện hành chưa được cụ thể hóa, chưa tương thích với các quy định của Hiến pháp năm 2013 và các Công ước quốc tế, như: chưa có quy định về quyền biểu tình, do đó, trên thực tế việc xử lý hành chính hoặc truy tố hình sự những hành vi này lại chuyển sang vận dụng quy định về hành vi gây rối trật tự công cộng; chưa có luật về Hội theo Điều 25 của Hiến pháp năm 2013…

Thứ hai, bảo đảm pháp lý trong thực hiện QCNQCD.

Ở Việt Nam, “cơ chế tổng quát” được xác định để bảo đảm QCNQCD là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Các thiết chế chủ yếu với tư cách là những chủ thể chính bảo đảm QCNQCD hiện nay gồm có: thiết chế chính trị (đảng phái); thiết chế nhà nước; thiết chế xã hội (các tổ chức chính trị – xã hội; các tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội nhân đạo, từ thiện; báo chí, truyền thông). Vị trí, vai trò, cơ chế phối hợp và thực thi QCNQCD của các thiết chế nói trên được quy định trong Hiến pháp và hệ thống các văn bản pháp luật. Về cơ bản, Hiến pháp đã ghi nhận quyền và trách nhiệm của các thiết chế nói trên trong việc bảo vệ QCNQCD, song việc thể chế hóa thành luật còn chậm. Do đó, việc làm rõ cơ chế phối hợp và thực thi QCNQCD giữa các thiết chế một cách đầy đủ và đồng bộ bằng pháp luật là một nhu cầu thực tiễn và cấp thiết.

Thứ ba, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện QCNQCD

Trên thực tế còn nhiều khó khăn, bất cập trong việc thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát, đòi hỏi phải có sự đổi mới toàn diện để bảo đảm thực hiện QCNQCD ở Việt Nam. Trong hệ thống chính trị Việt Nam, hoạt động kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc thực hiện QCNQCD có tính chất đặc biệt, xuất phát từ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Nhà nước và xã hội. Cơ chế kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan trong hệ thống nhà nước được quy định trong Hiến pháp và cơ chế giám sát lẫn nhau được thúc đẩy ở cả phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hệ thống báo chí, truyền thông và các đoàn thể nhân dân có vai trò giám sát, phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được trao vai trò giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và đại biểu dân cử tham gia phản biện xã hội đối với các văn bản, chính sách của Nhà nước trước khi được thông qua. Pháp luật Việt Nam giao cho Mặt trận Tổ quốc quyền hạn và trách nhiệm giám sát xã hội.

Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội là giám sát “không chế tài”, chưa ràng buộc trách nhiệm nên còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Giám sát của người dân đối với hoạt động của Nhà nước thông qua các cơ chế pháp lý như bầu cử, ứng cử, chất vấn, khiếu nại, tố cáo và quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở đã được xác lập nhưng khó thực hiện, nhiều bất cập.

Thứ tư, giải quyết tranh chấp trong thực hiện QCNQCD.

Các tranh chấp này có thể là tranh chấp pháp luật giữa các cá nhân, tổ chức, cơ quan và giữa nhà nước với các chủ thể này liên quan đến việc thực hiện QCNQCD. Các tranh chấp được giải quyết dưới nhiều hình thức khác nhau theo các thủ tục do các cơ quan, tổ chức, như: tòa án, trọng tài phi chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức hòa giải… thực hiện. Tuy nhiên, do vị trí, vai trò, trách nhiệm đặc biệt của Nhà nước trong việc thực hiện QCNQCD ngày nay các quốc gia văn minh đều đã quan tâm hơn đến tranh chấp pháp luật giữa cá nhân, tổ chức với Nhà nước về những quyền này.

Để bảo đảm pháp luật được thực hiện trên thực tế phải có các chế tài và sự tuân thủ nghiêm túc. Chế tài có thể được áp dụng bởi tòa án hay cơ quan hành chính nhà nước, với tính chất là công cụ cưỡng chế nhà nước, chế tài được áp dụng nhằm tạo ra hậu quả bất lợi đối với người vi phạm pháp luật, thể hiện sự lên án của Nhà nước và xã hội. Qua chức năng trừng trị, giáo dục, phòng ngừa và khôi phục quan hệ xã hội bị vi phạm, chế tài bảo đảm cho QCNQCD được thực hiện.

Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Đăng Dung. Cải cách chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2011.
2. Học viện Hành chính Quốc gia. Quyền con người, quyền công dân. Sách chuyên khảo. H. NXB Bách khoa Hà Nội, 2021.
3. Đinh Thế Hưng. Các điều kiện bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10/2010.
4. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
5. Nguyễn Như Phát (Chủ nhiệm). Cơ chế bảo vệ quyền con người, cơ chế bảo hộ quyền cơ bản của công dân theo yêu cầu của Hiến pháp. Đề tài cấp bộ. Viện Nghiên cứu lập pháp, 2014 – 2016.
6. Phạm Hồng Thái. Chủ quyền nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam. Tạp chí Tổ chức nhà nước số 8/2014.
TS. Nguyễn Thị Vân Hà
Học viện Hành chính Quốc gia