Nâng cao vai trò của nghiên cứu khoa học trong Chiến lược phát triển Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm qua, Học viện Hành chính Quốc gia đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công tác nghiên cứu khoa học. Đây là yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kiến thức, kỹ năng về hành chính, về lãnh đạo, quản lý cho cán bộ, công chức, viên chức; đào tạo nguồn nhân lực của đơn vị sự nghiệp công lập hạng đặc biệt, trực thuộc Bộ Nội vụ và Chiến lược phát triển Học viện Hành chính Quốc gia giai đoạn 2020 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Giai đoạn 2018 – 2022, Học viện đã tổ chức thành công 110 tọa đàm, hội thảo trong nước, 23 tọa đàm, hội thảo quốc tế có chất lượng cao.
Vai trò nghiên cứu khoa học của Học viện Hành chính Quốc gia

Một là, nâng cao vị thế của Học viện Hành chính quốc gia (sau đây viết tắt là Học viện), tạo tiền đề thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao tham gia đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) và nghiên cứu khoa học (NCKH). Trong 5 năm qua, những thành tựu trong hoạt động NCKH đã góp phần nâng cao vị thể, uy tín của Học viện trong triển khai thực hiện các đề tài NCKH cấp quốc gia, cấp bộ và cấp tỉnh, trong tổ chức hội thảo quốc gia, quốc tế và là địa chỉ đáng tin cậy để các tổ chức khoa học lớn ở trong nước, quốc tế mời đồng chủ trì/tham dự các diễn đàn khoa học mà Học viện có thế mạnh. Từ các diễn đàn này, hệ thống giáo trình, sách chuyên khảo, các công bố khoa học trong nước, quốc tế của các NKH, giảng viên và thương hiệu của Học viện ngày càng được khẳng định và lan tỏa. Đồng thời, thông qua các hoạt động hợp tác trong NCKH, Học viện đã thu hút ngày càng đông đảo đội ngũ các chuyên gia, nhà quản lý ở các lĩnh vực tham gia vào các hoạt động ĐTBD và NCKH.

Hai là, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên – yếu tố quyết định chất lượng ĐTBD. NCKH là một trong hai nhiệm vụ chính và rất cần thiết đối với giảng viên. Thông qua công tác NCKH, một mặt giúp giảng viên cập nhật, củng cố, nâng cao kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ giảng dạy, gắn lý thuyết với thực tiễn; mặt khác NCKH giúp cho giảng viên nâng cao uy tín, sự kính trọng của các thế hệ học viên, sinh viên và toàn xã hội. Thực tế đã cho thấy, không thể có một giảng viên giỏi khi giảng viên đó không phải là người có nhiều thành tích NCKH; giảng viên NCKH tốt là người có đủ năng lực kiến tạo tri thức mới, giúp người học có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề. Vì vậy, những nỗ lực và thành tích trong NCKH đã trực tiếp góp phần nâng cao năng lực của chính đội ngũ giảng viên và là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng ĐTBD của Học viện.

Ba là, nâng cao tính chủ động và kỹ năng mềm cho sinh viên, học viên, và nghiên cứu sinh. NCKH là hoạt động trí tuệ giúp sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh vận dụng phương pháp luận và phương pháp NCKH trong học tập và thực tiễn. Tham gia NCKH là quá trình sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh vận dụng những tri thức đã học để tiến hành hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu, giải quyết những vấn đề khoa học từ thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp đặt ra, qua đó rèn luyện cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh khả năng tư duy logic, sáng tạo, kỹ năng phân tích, phản biện, làm việc độc lập hoặc làm việc nhóm và những kỹ năng mềm khác, từ đó giúp sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh có thể hiểu sâu, biết rộng và hoàn thiện những tri thức mới.

Những thành tựu về nghiên cứu khoa học của Học viện

Trong quá trình xây dựng và phát triển, được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia và sự vào cuộc trách nhiệm, tâm huyết của đội ngũ nhà khoa học (NKH), giảng viên, viên chức, người lao động của các đơn vị thuộc và trực thuộc Học viện. Giai đoạn 2018 – 2022, hoạt động NCKH của Học viện đã đạt được những kết quả to lớn, đáng ghi nhận.

Về công tác nghiên cứu khoa học.

Trong giai đoạn 2018 – 2022, Học viện đã triển khai 206 đề tài khoa học các cấp (có: 183 đề tài khoa học cấp cơ sở, 17 đề tài khoa học cấp Bộ, 4 đề tài khoa học cấp tỉnh, 2 đề tài cấp quốc gia)1.

Hoạt động tổ chức tọa đàm, hội thảo khoa học được duy trì. Với các chủ đề có tính thời sự, cấp thiết phục vụ trực tiếp cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của Học viện, tọa đàm, hội thảo khoa học thực sự là diễn đàn quan trọng để các NKH, giảng viên, nghiên cứu viên của Học viện trao đổi, phát biểu, đóng góp ý kiến trong lĩnh vực khoa học chính sách, quản lý và quản trị công. Đặc biệt, bên cạnh kinh phí có nguồn từ ngân sách nhà nước và nguồn thu sự nghiệp, Học viện còn huy động nguồn kinh phí xã hội hóa để tổ chức các hội thảo quốc tế, quốc gia thu hút được sự tham gia của nhiều tổ chức, NKH trong và ngoài nước. Giai đoạn 2018 – 2022, Học viện đã tổ chức thành công 110 tọa đàm, hội thảo trong nước, 23 tọa đàm, hội thảo quốc tế có chất lượng cao2, trong đó có những hội thảo đã được biên tập, xuất bản kỷ yếu, là tài liệu tham khảo quan trọng trong công tác nghiên cứu, giảng dạy.

Công tác xây dựng giáo trình, tài liệu rất tích cực, hiệu quả. Tổ chức biên soạn 53 giáo trình sau đại học; xây dựng, thẩm định, phê duyệt, ban hành 28 chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo ngạch, theo chức danh lãnh đạo, quản lý và kỹ năng nghiệp vụ trong quản lý bao gồm cả biên soạn mới; biên soạn và xuất bản 204 đầu sách chuyên khảo, tham khảo, hướng dẫn.3

Cùng với đó, Học viện còn chủ trì biên soạn, tổ chức nghiệm thu và trình Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành các chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế – xã hội chuyên sâu cho chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân nhân xã theo Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; chương trình bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý cấp phòng thuộc đơn vị sự nghiệp công lập; chương trình, tài liệu bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, huyện và tương đương; chương trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp; chương trình, tài liệu tài liệu bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước (QLNN) dành cho giảng viên; chương trình, tài liệu bồi dưỡng phương pháp sư phạm dành cho giảng viên… Hằng năm, đội ngũ NKH, giảng viên, viên chức, người lao động của Học viện còn viết hàng trăm cuốn sách chuyên khảo, sách tham khảo và các bài báo đăng trên Tạp chí khoa học trong nước, quốc tế có uy tín.

Về thể chế quản lý công tác NCKH

Thể chế quản lý công tác NCKH của Học viện thường xuyên được cập nhật sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, phù hợp với chủ trương và chiến lược phát triển Học viện. Các quy chế về hoạt động khoa học được ban hành, như: Quy chế Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ; Quy chế Biên soạn, thẩm định, lựa chọn, duyệt và sử dụng giáo trình, tài liệu; Quy chế Tổ chức và hoạt động của Hội đồng Khoa học và Đào tạo… Công tác quản lý hoạt động NCKH của Học viện có những chuyển biến tích cực, chuyên nghiệp và hiệu quả. Đồng thời, với tư cách là đơn vị tham mưu quản lý hoạt động khoa học-công nghệ, Viện NCKH hành chính đã tích cực, chủ động phối hợp với các đơn vị trong và ngoài Học viện triển khai nhiều dự án điều tra, khảo sát thực tiễn, tổng kết lý luận và đề xuất giải pháp ứng dụng các kết quả nghiên cứu.

Về việc phối hợp trong công tác NCKH

Học viện đã phối hợp có hiệu quả với nhiều tổ chức nghiên cứu, đào tạo trong nước, như: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ… Lãnh đạo Học viện đã quan tâm ký kết văn bản hợp tác khoa học và tổ chức thực hiện nhiều hoạt động hợp tác NCKH với các viện nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức trên thế giới, như: Học viện Hành chính công Canada, Trường Công vụ Xinh-ga-po; Trường Hành chính Quốc gia của Cộng hòa Pháp; Trường Đại học Anh Quốc… tổ chức nhiều đoàn khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm về ĐTBD và NCKH ở các nước trên thế giới, đồng thời đón các đoàn chuyên gia nước ngoài vào trao đổi, hợp tác với Học viện.

Các kết quả NCKH của Học viện trên đây đã góp phần làm rõ nhiều vấn đề lý luận cơ bản của khoa học hành chính, QLNN, khoa học chính sách phục vụ công tác giảng dạy của Học viện; cung cấp các luận cứ khoa học về cải cách hành chính, cải cách công vụ, công chức, chính sách công… Đồng thời, kết quả NCKH đã đặt cơ sở lý luận hình thành và phát triển tri thức khoa học ngành, các chuyên ngành ở bậc đại học và sau đại học góp phần đổi mới tư duy, nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy của đội ngũ giảng viên, viên chức Học viện.

Những hạn chế, bất cập trong nghiên cứu khoa học của Học viện

Bên cạnh những kết quả, thành tựu quan trọng đáng ghi nhận, công tác NCKH của Học viện còn một số hạn chế, bất cập. Cụ thể:

Thứ nhất, Học viện là một trung tâm quốc gia về ĐTBD và NCKH hạng đặc biệt, tuy nhiên hiện nay số lượng các NKH giữ ngạch nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cao cấp rất thấp và không có NKH, giảng viên nào có học hàm giáo sư. Theo quy định, đội ngũ giảng viên phải đồng thời thực hiện tốt cả nhiệm vụ giảng dạy và NCKH nhưng đội ngũ giảng viên cũng đang đứng trước nguy cơ thiếu giờ giảng và ít có cơ hội được giao làm chủ nhiệm ĐTKH cấp cơ sở, trong khi việc tìm kiếm đề tài cấp bộ, cấp tỉnh, cấp quốc gia là vô cùng khó khăn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực KHCN của Học viện.

Thứ hai, cơ chế xét chọn, tuyển chọn đề tài nghiên cứu vẫn chưa được cải thiện. Hằng năm, Học viện chưa xây dựng được danh mục các nhiệm vụ KHCN có tính cấp thiết, cấp bách về lý luận, pháp lý và thực tiễn xét và tổ chức xét chọn, tuyển chọn theo hình thức đấu thầu. Việc tổ chức xét chọn, thẩm định đề tài nghiên cứu chưa căn cứ vào các tiêu chí và thang điểm. Tên một số đề tài nghiên cứu cấp cơ sở còn dàn trải; các đề tài nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu mà ít sử dụng các phương pháp khảo sát, phỏng vấn, trắc nghiệm, hội nghị khoa học hay điều tra bằng bảng hỏi… Hoạt động tổ chức đánh giá, nghiệm thu các kết quả nghiên cứu của ĐTKH ở cả cấp khoa và cấp Học viện còn chậm đổi mới về tiêu chí, phương pháp đánh giá, chưa đề cao trách nhiệm cá nhân của từng thành viên hội đồng.

Thứ ba, giá trị khoa học và giá trị thực tiễn của các kết quả nghiên cứu của một số ĐTKH cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu về nội dung sản phẩm trong bản thuyết minh đã cam kết. Những đóng góp mới về khoa học và khả năng ứng dụng, sử dụng các kết quả nghiên cứu của các đề  tài vào thực tiễn, phục vụ giảng dạy hoặc cung cấp những luận cứ khoa học còn chưa được quan tâm sử dụng đúng mức… Vì vậy, các kết quả nghiên cứu chưa thực sự bám sát yêu cầu phục vụ công tác giảng dạy của Học viện.

Thứ tư, việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu của các nhiệm vụ KHCN cấp cơ sở vào thực tiễn còn hạn chế và chưa hiệu quả. Các kết quả nghiên cứu của ĐTKH cấp cơ sở hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc đăng tải trích yếu về những kết quả nghiên cứu chính trên trang website của Học viện mà chưa được đăng toàn văn kết quả nghiên cứu để phục vụ khai thác, tham khảo và ứng dụng. Các ĐTKH cấp cơ sở có công bố bài báo khoa học trên các Tạp chí chuyên ngành còn rất hạn chế.

Thứ năm, kinh phí  đầu tư cho thực hiện các nhiệm vụ NCKH còn rất khiêm tốn, số lượng các đề tài cấp cơ sở được Giám đốc Học viện phê duyệt hằng năm còn ít so với yêu cầu nhiệm vụ NCKH và nhu cầu nghiên cứu của giảng viên. Kinh phí dành cho những ĐTKH trọng điểm do Ban Giám đốc Học viện đặt hàng nhằm mục tiêu cung cấp luận cứ, đề xuất những giải pháp nhằm hiện thực hóa Chiến lược phát triển Học viện Hành chính Quốc gia giai đoạn 2020-2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng chưa được triển khai mở rộng.

Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong nghiên cứu khoa học của Học viện.

Những hạn chế, bất cập trong hoạt động NCKH của Học viện xuất phát từ những nguyên nhân sau:

Một là, năng lực, trách nhiệm và tâm huyết của chủ nhiệm nhiệm vụ KHCN nói chung, của ĐTKH cấp cơ sở nói riêng chưa đồng đều. Đa phần các chủ nhiệm ĐTKH cấp cơ sở là những NKH trẻ, có nhiệt huyết nhưng còn thiếu kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn NCKH; còn thiếu vắng sự tham gia của các NKH đầu ngành, có kiến thức chuyên sâu, giàu kinh nghiệm NCKH giữ vai trò định hướng, chỉ dẫn và bồi dưỡng.

Hai là, nhận thức về vị trí, vai trò của NCKH trong thực hiện Chiến lược phát triển Học viện của một bộ phận giảng viên trẻ còn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số đơn vị thuộc, trực thuộc Học viện chưa quan tâm xây dựng nội dung, chương trình kế hoạch NCKH hằng năm gắn sinh hoạt chuyên môn giảng dạy của đơn vị để tìm kiếm những giải pháp bồi dưỡng các NKH trẻ và chủ động triển khai đăng ký đấu thầu chủ nhiệm các nhiệm vụ KHCN của Nhà nước, các bộ, ngành và địa phương đặt hàng.

Ba là, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ tư vấn cho Ban Giám đốc Học viện về các nhiệm vụ, định hướng nghiên cứu và mục tiêu NCKH của Hội đồng Khoa học – Đào tạo cấp khoa và cấp Học viện còn hạn chế; chưa tập hợp, phát huy được sức mạnh, trí tuệ tập thể của nguồn nhân lực hiện có để xây dựng, hình thành hệ thống lý thuyết khoa học cơ bản về hành chính, QLNN và chính sách công. Trách nhiệm cá nhân của một số thành viên của Hội đồng đánh giá, nghiệm thu kết quả nghiên cứu ĐTKH chưa thực sự đề cao. Cơ chế chuyển giao, ứng dụng, phát huy giá trị khoa học và thực tiễncủa các kết quả, sản phẩm NCKH vào thực tiễnchưa được lãnh đạo các cấp có thẩm quyền quan tâm đủ mức.

Bốn là, theo Quyết định số 05/2018/QĐ-TTg ngày 23/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia tại khoản 3 Điều 2 quy định những nhiệm vụ NCKH: “a) NCKH hành chính, QLNN và khoa học chính sách phục vụ công tác giảng dạy của Học viện; b) Nghiên cứu cung cấp các luận cứ khoa học về cải cách hành chính, cải cách công vụ, công chức, chinh sách công, chiến lược, biện pháp nâng cao năng lực và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và tổ chức bộ máy hành chính nhà nước nhằm cập nhật nội dung, chương trình ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức và đào tạo sau đại học của Học viện; c) Tham gia xây dựng các chương trình, đề án thuộc lĩnh vực hành chính và QLNN khi được cấp có thẩm quyền giao”. Đây là 3 nhiệm vụ có nội dung, nội hàm vô cùng rộng lớn và phức tạp, đòi hỏi các cơ quan chức năng phải có sự đầu tư lớn về nguồn lực và các điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện.

Năm là, Học viện Hành chính Quốc gia là đơn vị sự nghiệp công lập hạng đặc biệt, trực thuộc Bộ Nội vụ. Tuy nhiên, hằng năm chưa được các cơ quan QLNN cấp trên quan tâm ĐTBD nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đầu tư ngân sách bảo đảm thực hiện nhiệm vụ NCKH phù hợp với tính chất đặc thù, tương xứng với một trung tâm quốc gia về ĐTBD và NCKH về hành chính, QLNN và chính sách công.

Giải pháp nâng cao vai trò của nghiên cứu khoa học trong Chiến lược phát triển Học viện

Để góp phần nâng cao vai trò của NCKH trong Chiến lược phát triển Học viện giai đoạn 2020 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cần phải tiến hành một cách mạnh mẽ, đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học.

Học viện cần xây dựng và thực thi Chiến lược phát triển nguồn nhân lực KHCN nhằm tạo ra một đội ngũ các NKH đủ về số lượng, hợp lý về cơ  cấu, có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu chuyên sâu trên các lĩnh vực thuộc khoa học hành chính, QLNN và khoa học chính sách. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên; nghiên cứu, đổi mới cơ bản, toàn diện hoạt động ĐTBD; nâng cao năng lực NCKH và tư vấn chính sách. Trên cơ sở chiến lược kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng và phát triển đội ngũ viên chức, tiến hành xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực khoa học trong toàn hệ thống Học  viện và của từng đơn vị. Đồng thời, khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cấu chuyên ngành, trình độ, độ tuổi, giới tính như hiện nay.

Thứ hai, đổi mới công tác tuyển dụng, tạo nguồn; ĐTBD; đánh giá; bố trí, sử dụng và chế độ, chính sách đối với nguồn nhân lực khoa học.

Về tuyển dụng, tạo nguồn, cần nhận thức công tác tuyển dụng, tạo nguồn là khâu quan trọng bậc nhất trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ các NKH. Công tác này cần chú ý một số vấn đề, như: xác định lại nguồn nhân lực khoa học phù hợp với thực trạng và định hướng phát triển Học viện trong từng thời kỳ; đổi mới phương thức tuyển chọn; nâng tiêu chuẩn tuyển dụng đối với giảng viên, nghiên cứu viên; công tác tổ chức tuyển chọn phải thực sự công tâm, khách quan, lựa chọn đúng người đủ năng lực giảng dạy và NCKH.

Về ĐTBD, cần tiếp tục đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả ĐTBD, trong đó tập trung giải quyết tốt một số vấn đề, như: đa dạng hóa nguồn lực cho công tác ĐTBD; việc ĐTBD phải tuân theo quy hoạch và nhu cầu về vị trí việc làm; xây dựng và thống nhất thực hiện quy trình ĐTBD đối với từng đối tượng cán bộ NCKH.

Về đánh giá đội ngũ cán bộ khoa học, cần bảo đảm khách quan, toàn diện cần chú ý thực hiện tốt các vấn đề, như: xây dựng bộ tiêu chí, tiêu chuẩn và khung năng lực đối với từng chức danh, từng vị trí việc làm của cán bộ khoa học; bên cạnh việc tự đánh giá của cá nhân NKH và đơn vị công tác, cần coi trọng đánh giá của học viên, sinh viên và các cơ quan, đơn vị  phối hợp thực hiện hoạt động NCKH.

Bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ NCKH. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả nhằm phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện. Bố trí , sử dụng đúng người, đúng việc, đúng tầm. Nghiên cứu hình thành nhóm nghiên cứu mạnh như một giải pháp đột phá để thúc đẩy chất lượng, hiệu quả hoạt động NCKH. Sử dụng các chuyên gia, các NKH và giảng viên vào đúng ở trường, thế mạnh của họ. Thực hiện luân chuyển, sắp xếp lại đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên cho phù hợp với chuyên ngành đào tạo. Tăng cường sử dụng đội ngũ giảng viên kiêm chức, nghiên cứu viên kiêm chức và chú ý mời các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia, các NKH trong và đội ngũ học viên tham gia nghiên cứu, sinh hoạt khoa học.

Về chế độ, chính sách, cần khắc phục hiện tượng bình quân trong thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng; nâng lương sớm đối với các NKH đạt thành tích xuất sắc trong hoạt động NCKH; khuyến khích những thu nhập chính đáng bằng khai thác, phát huy lao động chất xám. Tạo điều kiện cho các NKH trẻ có nhiều cơ hội được tham gia NCKH và đi hội thảo ở nước ngoài. Quan tâm đầu tư thực chất hơn đến chế độ và chất lượng đi khảo sát thực tế của các đơn vị, cá nhân. Nghiên cứu thành lập Quỹ giải thưởng khoa học và quỹ hỗ trợ tài năng trẻ nhằm khuyến khích, thúc đẩy hoạt động NCKH.

Thứ ba, tổ chức thực hiện có hiệu quả Quy chế Quản lý hoạt động KH&CN.

Viện NCKH hành chính chủ trì xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện Quy chế Quản lý hoạt động KH&CN (Giám đốc Học viện ban hành ngày 22/3/2021). Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung của Quy chế đến từng đơn vị thuộc, trực thuộc, cá nhân viên chức, giảng viên, nghiên cứu viên của Học viện. Hướng dẫn cho các tổ chức, cá nhân NKH của Học viện thực hiện đúng nguyên tắc quản lý, yêu cầu, nội dung, kinh phi và tiêu chuẩn đối với chủ nhiệm nhiệm vụ KH&CN; thực hiện đúng các quy định về  hồ sơ, thời gian đăng ký nhiệm vụ KH&CN; các hội đồng xét chọn, tuyển chọn và hội đồng đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện đúng quy trình, tiêu chí để tư vấn cho Giám đốc Học viện phê duyệt, giao thực hiện những nhiệm vụ và công nhận kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN đúng với mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ NCKH của Học viện.

Đồng thời, Viện NCKH hành chính cần phối hợp với các đơn vị được giao chủ trì, cá nhân được giao chủ nhiệm nhiệm vụ KHCN trình Giám đốc Học viện công bố kết quả, quản lý, sử dụng có hiệu quả, đúng các quy định về quyền sở hữu, quyền sử dụng và khai thác tối đa các giá trị khoa học, giá trị thực tiễn của các kết quả nghiên cứu phục vụ nhiệm vụ chính trị của Học viện. Bên cạnh đó, Viện NCKH hành chính phối hợp với các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong và ngoài Học viện triển khai các NCKH, tổ chức tốt các tọa đàm, hội thảo, hội nghị, điễn đàn khoa học cấp khoa, cấp Học viện, cấp quốc gia và quốc tế.

Thứ tư, trên cơ sở tăng cường kinh phí bằng nguồn thu sự nghiệp, cần đa dạng hóa các nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động NCKH.

Xã hội hóa các hoạt động KH&CN là yêu cầu tất yếu khách quan trong điều kiện hội nhập và phát triển. Đây là quá trình phức tạp, vừa cấp bách vừa lâu dài. Trong thời gian tới, Học viện cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý hoạt động NCKH, chuyển đổi cơ chế đầu tư, quản lý tài chính NCKH theo nguyên tắc đặt hàng, dựa vào kết quả, hiệu quả cuối cùng để qua đó tăng cường thu hút các nguồn lực ngoài xã hội; từng bước chuyển tổ chức khoa học của Học viện sang hoạt động theo cơ chế thị trường; đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả đầu tư xã hội cho NCKH. Cần tập trung nguồn lực vào những khu vực làm việc hiệu quả như các trung tâm ĐTBD và NCKH lớn. Hơn thế nữa, Học viện Hành chính Quốc gia là đơn vị sự nghiệp công lập “hạng đặc biệt”- Một “trung tâm quốc gia” về ĐTBD và NCKH, việc đầu tư về nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước sẽ giúp cho Học viện nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động NCKH và đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, học tập của đội ngũ giảng viên và học viên.

Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế về NCKH.

Để hợp tác quốc tế về NCKH của Học viên đạt được những kết quả thiết thực, thúc đẩy chất lượng, hiệu quả hoạt động NCKH, cần gắn chặt hơn nữa giữa hoạt động hợp tác quốc tế với các định hướng nghiên cứu và nội dung giảng dạy của Học viện. Tăng cường tìm kiếm và lựa chọn các đối tác quốc tế có uy tín, có tiềm lực khoa học và năng lực tài chính lớn; đa dạng hóa các hình thức hợp tác, coi trọng hợp tác thông qua trao đổi các đoàn nghiên cứu dưới dạng ký kết các biên bản ghi nhớ về hợp tác theo lĩnh vực, chủ đề nghiên cứu mà hai bên cùng quan tâm; hợp tác thông qua phương thức trao đổi ĐTBD; hợp tác tổ chức các hoạt động NCKH trong khuôn khổ, chia sẻ tri thức, kinh nghiệm, thông tin khoa học giữa các NKH của Học viện với các cơ sở đào tạo, NCKH hàng đầu quốc tế… Cùng với đó, Học viện cần quan tâm bồi dưỡng về năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên. Đồng thời, Học viện cũng phải sớm đưa ra quy định và chế tài bắt buộc đối với giảng viên, nghiên cứu viên phải sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại ngữ để thực hiện tốt nhiệm vụ hợp tác quốc tế về NCKH.

Chú thích:
1, 2, 3. Báo cáo số 455/BC-VNC ngày 09/8/2022 của Viện nghiên cứu Khoa học hành chính về công tác nghiên cứu khoa học của Học viện Hành chính Quốc gia giai đoạn 2018 – 2022.
Tài liệu tham khảo:
1. Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2010 – 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ).
2. Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ của ngành Nội vụ giai đoạn 2015 – 2025, ban hành kèm theo Quyết định số 1585/QĐ-BNV ngày 16/10/2015 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
3. Quyết định số 05/2018/QĐ-TTg ngày 23/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia.
4. Quyết định số 372/QĐ-BNV ngày 02/6/2020 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt Chiến lược phát triển Học viện Hành chính Quốc gia giai đoạn 2020 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
TS. Nguyễn Minh Sản
Học viện Hành chính Quốc gia