(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm qua, để nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó, yêu cầu sắp xếp, cơ cấu lại đội ngũ viên chức phù hợp, đáp ứng khung năng lực cho vị trí việc làm của đơn vị sự nghiệp công lập. Bài viết tập trung làm rõ những yêu cầu và giải pháp nâng cao năng lực hoàn thiện đội ngũ viên chức trong đơn vị nghiệp công lập hiện nay.
Quá trình xây dựng đội ngũ viên chức đáp ứng khung năng lực theo vị trí việc làm của các đơn vị sự nghiệp công lập trong nền công vụ Việt Nam
Từ năm 2013, các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) trong các bộ, cơ quan ngang bộ, các địa phương đã triển khai xây dựng Đề án vị trí việc làm (VTVL) để trình các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt và đạt được một số kết quả nhất định. Chính phủ ban hành Nghị định số 106/2020/NĐ-CP về VTVL và số lượng người làm việc trong ĐVSNCL thay thế Nghị định số 41/2012/NĐ-CP, Thông tư số 14/2012/TT-BNV hướng dẫn thực hiện Nghị định số 41/2012/NĐ-CP quy định về VTVL trong ĐVSNCL. Văn bản này cho thấy, Đảng ta đã thống nhất chặt chẽ về lý luận và sát với thực tiễn của công tác tổ chức tại ĐVSNCL. Trên cơ sở danh mục VTVL đã được phê duyệt, các ĐVSNCL tiếp tục triển khai xây dựng bản mô tả công việc và khung năng lực (KNL) của từng VTVL, xây dựng Đề án VTVL làm cơ sở cho công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng và quản lý viên chức. Ý thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng KNL nhằm đổi mới tư duy, phát triển nhận thức, nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của đội ngũ viên chức, các ĐVSNCL đã chủ động nghiên cứu, bước đầu áp dụng các tiêu chí trong bản mô tả công việc để đánh giá, xếp loại viên chức.
Trong thời gian qua, một số tỉnh, thành và cũng như bộ, sở, ngành đã ban hành Quyết định về phê duyệt danh mục VTVL như: Quyết định số 818/QĐ-LĐTBXH ngày 28/6/2018 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội về phê duyệt danh mục VTVL trong các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Quyết định số số 1769/QĐ-UBND ngày 29/4/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc phê duyệt danh mục VTVL, bản mô tả công việc và năng lực VTVL trong các cơ sở giáo dục công lập thuộc UBND quận, huyện, thị xã trên địa bàn thành phố Hà Nội. Quyết định số 2684/QĐ-UBND ngày 06/7/2020 của UBND tỉnh Bình Định về phê duyệt danh mục VTVL; bản mô tả công việc và KNL VTVL của Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Định. Quyết định số 1673/QĐ-UBND ngày 12/9/2022 của UBND tỉnh Nam Định về phê duyệt danh mục VTVL, KNL VTVL của các Trung tâm Y tế tuyến tỉnh, tuyến huyện và các Bệnh viện công lập tự bảo đảm một phần kinh phí chi thường xuyên và bệnh viện công lập do ngân sách nhà nước cấp kinh phí chi thường xuyên trên địa bàn tỉnh Nam Định…
Tuy nhiên, việc xây dựng VTVL, KNL của các ĐVSNCL còn gặp không ít khó khăn, thách thức, như: các đơn vị còn lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện, kết quả tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ vẫn mang tính cơ học, cào bằng, không có tính đột phá. Nguyên nhân trước hết là do các quy định pháp lý, văn bản hướng dẫn về VTVL, phương thức xây dựng KNL, các tiêu chí đánh giá vẫn chưa rõ ràng, cụ thể.
Nghị định số 106/2020/NĐ-CP đã được ban hành từ năm 2020, tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn mới kịp thời; chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, liên thông giữa các văn bản của Đảng và Nhà nước. Chưa kể tính liên ngành trong quá trình mô tả, xác định VTVL của các viên chức; tính phức tạp trong hệ thống các chức danh nghề nghiệp viên chức dẫn đến việc các ĐVSNCL chậm triển khai tiến độ. Bên cạnh đó, chính sách thu hút nhân tài, chế độ tiền lương, thu nhập trong khu vực công còn nhiều bất cập, không tương xứng với vị trí công việc, còn mang tính bình quân, không tạo được động lực phát triển với đội ngũ viên chức. Cơ cấu đội ngũ viên chức không hợp lý, thừa viên chức làm công tác phục vụ hỗ trợ trong khi lại thiếu viên chức làm công tác chuyên môn. Trong khi đó, công tác đánh giá, xếp loại viên chức nhìn tổng thể vẫn chưa sát thực tiễn, chưa căn cứ vào sản phẩm đầu ra, chất lượng công việc và yêu cầu nhiệm vụ; vẫn còn mang tính cả nể, hình thức, đánh giá chung chung đại trà hằng năm; không có tiêu chí định lượng để so sánh, đối chiếu với KNL của VTVL.
Cơ sở pháp lý xác định khung năng lực cho vị trí việc làm của đơn vị sự nghiệp công lập
Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý, Nhà nước đã thông qua các ĐVSNCL để cung ứng dịch vụ công là các dịch vụ thiết yếu trong hoạt động đời sống của người dân, phục vụ nhu cầu và lợi ích chung của toàn xã hội.
Theo Điều 9 Luật Viên chức năm 2010, ĐVSNCL “là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”. ĐVSNCL có hai chức năng hoạt động chủ yếu là: (1) Cung cấp DVC (được dựa trên quan hệ cung – cầu, đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thị trường); (2) Phục vụ quản lý nhà nước (nghĩa là, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chuyên môn, chứ không mang tính quyền lực công).
Về VTVL, tại Điều 7 Luật Viên chức năm 2010 quy định: “vị trí việc làm là công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong ĐVSNCL”. Như vậy, xác định rõ VTVL sẽ là cơ sở cốt yếu trong việc cải cách bộ máy tổ chức, xác định số lượng lao động, VTVL cần thiết để người đứng đầu trong các ĐVSNCL có căn cứ đưa ra các quyết định tuyển dụng, đào tạo, đào tạo lại, bổ nhiệm, nâng ngạch, điều chuyển, luân chuyển viên chức. Để hướng dẫn cụ thể hơn, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 14/2012/NĐ-CP của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 của Chính phủ quy định về VTVL trong ĐVSNCL, trong đó xác định tại Điều 7: “khung năng lực của từng vị trí việc làm được xây dựng căn cứ trên cơ sở yêu cầu thực hiện công việc, được phản ánh trên bản mô tả công việc tương ứng, gồm các năng lực và kỹ năng cần có để hoàn thành nhiệm vụ được giao”.
Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại, sau khi Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 của Chính phủ về VTVL và số lượng người làm việc trong ĐVSNCL có hiệu lực, (thay thế Nghị định số 41/2012/NĐ-CP) thì có thể hiểu khái niệm về KNL là một công cụ mô tả các năng lực cần thiết phù hợp với một dạng hoạt động cụ thể, một nghề nghiệp, tổ chức hoặc ngành nghề nhất định. KNL bao gồm sự kết hợp giữa kiến thức, kỹ năng và thái độ trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức để bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. KNL thường bao gồm 3 bậc: (1) Năng lực chung; (2) Năng lực chuyên môn; (3) Năng lực lãnh đạo, quản lý áp dụng cho đội ngũ viên chức quản lý.
Việc đẩy mạnh quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại ĐVSNCL đã tạo ra cơ chế hỗ trợ các ĐVSNCL chủ động hơn trong cung cấp dịch vụ, cải thiện chất lượng, nâng cao thu nhập cho đội ngũ viên chức, đồng thời, giảm sự bao cấp hằng năm từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh thời cơ thì cũng có nhiều thách thức được đặt ra cho đội ngũ viên chức khi đứng trước yêu cầu phải đổi mới tư duy, cách thức, thái độ làm việc phù hợp với các tiêu chí KNL từng VTVL trong ĐVSNCL.
Ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL với mục tiêu: “đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các ĐVSNCL, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao… Tiếp đó, ngày 15/7/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030 và quy định để chi tiết về cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành theo VTVL, KNL, bảo đảm đúng người, đúng việc, nâng cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu.
Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện đội ngũ viên chức đáp ứng được khung năng lực cho vị trí việc làm
Thứ nhất, viên chức phải tuân thủ các nguyên tắc chung của tổ chức, thực thi công việc phù hợp và bảo vệ tôn chỉ mục đích hoạt động của ĐVSNCL. Nhằm cung ứng dịch vụ công tới người dân với chất lượng cao nhất, đội ngũ viên chức phải nắm được kiến thức chuyên môn, khả năng tiếp cận, trao đổi, truyền đạt thông tin; khả năng làm việc tập thể và xử lý sự cố cơ bản. Ở đây đòi hỏi viên chức phải đề cao phương pháp làm việc khoa học, có trách nhiệm, nắm được các giá trị cốt lõi của ĐVSNCL thông qua hệ thống quy chế, quy định, nội quy của tổ chức.
Thứ hai, viên chức phải nỗ lực trau dồi kiến thức, nâng cao kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, minh bạch, trung thực trong mọi hoạt động và sẵn sàng chịu trách nhiệm trong các quyết định tham mưu thuộc lĩnh vực phụ trách riêng. Viên chức phải đặt mục tiêu phấn đấu liên tục, thường xuyên, có mục đích, kế hoạch cụ thể, luôn bám sát thực tiễn để điều chỉnh, thích ứng linh hoạt trong cung ứng dịch vụ ngày càng đa dạng.
Nghị quyết số 76/NQ-CP đã chỉ ra mục tiêu: “Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập gắn với nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra, nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thúc đẩy sự sáng tạo; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; kiểm soát tham nhũng tại các cơ quan, đơn vị”. Như vậy, đổi mới cơ chế, tự chủ tài chính gắn với việc hoàn thành nhiệm vụ được giao và chất lượng dịch vụ công đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng đã đặt ra áp lực buộc phải đổi mói đội ngũ viên chức.
Thứ ba, viên chức lãnh đạo phải có kỹ năng lãnh đạo, quản lý, có tầm nhìn và hoạch định chiến lược. Có khả năng dự báo, ra quyết định, thích ứng nhanh với các điều kiện mới. Đó chính là cái “Tầm” đặt ra đối với người đứng đầu ĐVSNCL và đội ngũ viên chức quản lý. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cạnh tranh cung ứng dịch vụ giữa các ĐVSNCL và đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, người lãnh đạo phải biết tận dụng ưu thế nội tại, phát huy năng lực của từng cá nhân, tạo ra sức mạnh tổng thể để nâng cao sức cạnh tranh, giải quyết bài toán khó khăn về việc làm, tiền lương, thu nhập của đội ngũ viên chức.
Thứ tư, viên chức cần xác định rõ nhiệm vụ, VTVL của mình. Viên chức phải lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo, tiêu chuẩn đánh giá viên chức hằng tháng, hằng quý, hằng năm. Xác định người dân chính là khách hàng, đáp ứng được nguyện vọng, nhu cầu của người dân chính là cơ hội phát triển của ĐVSNCL, tạo uy tín thương hiệu cũng như gia tăng khả năng số lượt được phục vụ người dân, từ đó, tăng số lượng cũng như chất lượng đầu ra. Trên tinh thần cầu thị, lắng nghe và thấu hiểu nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của người dân, mỗi viên chức phải ý thức sâu sắc việc rèn luyện, học tập để đáp ứng, thích nghi linh hoạt với các nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Thứ năm, viên chức phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tiên phong, gương mẫu, có tinh thần phục vụ Nhân dân, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tránh xa các biểu hiện tiêu cực, thái độ hách dịch, cửa quyền, luôn làm việc hết tâm hết sức phục vụ quyền và lợi ích của người dân. “Cán bộ và đảng viên càng phải nâng cao tinh thần phụ trách, nêu gương “cần, kiệm, liêm, chính”, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân; phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh là nguồn gốc sinh ra tham ô, lãng phí”2.
Một số giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ viên chức đáp ứng khung năng lực cho vị trí việc làm của các đơn vị sự nghiệp công lập
Một là, tiếp tục tập trung nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về viên chức; hoàn thiện, đồng bộ, liên thông trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để khuyến khích, tạo động lực phát triển đội ngũ viên chức trong bối cảnh đổi mới toàn diện hệ thống tổ chức và bộ máy hoạt động của ĐVSNCL. Cụ thể:
(1) Tập trung ban hành các thông tư hướng dẫn, văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa Nghị định số 106/2020/NĐ-CP và các chủ trương, chính sách có liên quan đối với ĐVSNCL; ban hành rõ các quy định về dịch vụ công trong từng ngành. Bên cạnh đó, triển khai các chính sách hỗ trợ về thuế, phí, đầu tư hạ tầng cơ sở vật chất… khuyến khích ĐVSNCL nhanh chóng chuyển đổi nâng cao năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong bối cảnh mới.
(2) Thực hiện cơ chế đặt hàng, mua hàng, giao nhiệm vụ của các bộ, ban, ngành với ĐVSNCL, nâng cao sức sáng tạo, năng lực cạnh tranh của các ĐVSNCL, từ đó tạo nguồn thu nhập ổn định cho đội ngũ viên chức. Từng bước sửa đổi, điều chỉnh cơ chế tính giá đặt hàng đối với các loại hình dịch vụ công phù hợp với quy luật cung – cầu của thị trường cũng như bảo đảm ngân sách nhà nước.
(3) Ban hành văn bản hướng dẫn về VTVL của lãnh đạo, viên chức quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành; hướng dẫn phương pháp tiến hành xác định VTVL, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp; định mức số lượng người làm việc đối với ĐVSNCL. Xác định rõ KNL đối với vị trí chuyên môn, thừa hành, vị trí hỗ trợ, phục vụ của ĐVSNCL.
(4) Đẩy mạnh phân cấp và thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho ĐVSNCL cả về cơ chế tài chính và tổ chức bộ máy, bảo đảm công khai, dân chủ, minh bạch, không để tình trạng công – tư lẫn lộn, gây thất thoát, lãng phí tài sản của Nhà nước và nguồn lực xã hội, gây bức xúc trong dư luận.
Hai là, có nhận thức đúng về KNL, VTVL trong các ĐVSNCL để có kế hoạch và lộ trình triển khai phù hợp; xây dựng và hoàn thiện Đề án VTVL, thiết lập bản mô tả công việc xác định mục tiêu cụ thể, số lượng viên chức, các tiêu chí lượng hóa, bảo đảm chất lượng, cơ cấu, tỷ lệ đội ngũ viên chức có khả năng đảm nhận công việc được giao. Việc sắp xếp hợp lý về mặt tổ chức sẽ tạo điều kiện thuận lợi để ĐVSNCL tuyển chọn, sử dụng đúng người, đúng việc, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh song song với việc tinh giản biên chế theo tinh thần cải cách công vụ của các ĐVSNCL trong nước.
Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức đáp ứng KNL VTVL của ĐVSNCL. Cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý đối với đội ngũ viên chức. Tăng cường đào tạo lại, đổi mới các hình thức học tập, tạo cơ hội cho đội ngũ viên chức được tiếp cận những kiến thức, kỹ năng, công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất kết hợp khuyến khích viên chức tự tìm hiểu, rèn luyện phát triển năng lực cá nhân. Hình thành thái độ làm việc chuyên nghiệp, có kiến thức trong thực thi công vụ, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của người dân. Bố trí, sắp xếp, sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ viên chức. Tái cơ cấu, tinh giản biên chế đối với các VTVL như lái xe, bảo vệ, vệ sinh, sửa chữa bảo trì trong ĐVSNCL đồng thời sắp xếp gia tăng đội ngũ viên chức làm công việc chuyên môn, thừa hành. Có chính sách thu hút và trọng dụng đội ngũ viên chức có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi. Xây dựng chế độ đãi ngộ cả về vật chất và tinh thần, trả lương cho viên chức theo kết quả thực thi nhiệm vụ, sự hài lòng của người dân, chất lượng dịch vụ cung ứng. Ngoài ra, cần cải thiện môi trường, điều kiện làm việc để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, viên chức có động lực, yên tâm làm việc, toàn tâm toàn lực cống hiến cho ĐVSNCL.
Bốn là, gắn công tác đánh giá, xếp loại của đội ngũ viên chức sát thực tiễn, có tiêu chuẩn, tiêu chí đo lường được, gắn với VTVL và kết quả thực hiện nhiệm vụ. Bảo đảm hoạt động đánh giá viên chức khách quan, trung thực, không cào bằng, không nể nang, duy ý chí. Xác định đánh giá là công cụ để đo mức độ đóng góp, cống hiến của một viên chức, từ đó sàng lọc, phân loại những viên chức không hoàn thành nhiệm vụ; tuyên dương, khen thưởng với viên chức hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Để trên cơ sở đó, có kế hoạch bồi dưỡng, quy hoạch vào các vị trí phù hợp, điều chuẩn, luân chuyển, bổ nhiệm theo đúng tiêu chuẩn, từng bước tiến đến xây dựng hệ thống thang bảng lương dựa trên chất lượng, khối lượng, hiệu quả công việc của viên chức trong ĐVSNCL.
Năm là, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu ĐVSNCL. Người đứng đầu đơn vị phải chủ động và chịu trách nhiệm trong quá trình quản lý, bố trí sử dụng đội ngũ viên chức theo KNL của VTVL. Bảo đảm khách quan, công tâm, vì mục tiêu chung của tổ chức.
Sáu là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát trong công tác tổ chức, kịp thời phát hiện những bất cập, đưa ra các kiến nghị đề xuất sửa đổi, bổ sung; tiến hành xử lý các sai phạm nhằm giữ vững trật tự, kỷ cương trong thực thi công vụ. Bên cạnh đó, biểu dương khen thưởng những tấm gương sáng, tiên phong đổi mới, hướng tới một nền công vụ chuyên nghiệp.