Tư tưởng của V.I.Lênin về quan hệ giai cấp với dân tộc trong cách mạng vô sản – giá trị lý luận và thực tiễn

(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng về quan hệ giai cấp với dân tộc trong cách mạng vô sản là di sản quý giá mà V.I.Lênin để lại cho giai cấp công nhân, các đảng cộng sản, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong giai đoạn hiện nay, tư tưởng của V.I.Lênin vẫn có sức sống mãnh liệt trong thực tiễn, là cơ sở phương pháp luận khoa học để giải quyết quan hệ giai cấp với dân tộc ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.
Ảnh minh họa: tuyengiao.vn

Nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản trở thành giai cấp phản động toàn diện: quân sự hóa về kinh tế, phát xít hóa về chính trị, gây chiến tranh xâm lược khắp nơi, thế giới xuất hiện hai hệ thống là các nước đế quốc và các nước thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Vấn đề dân tộc (VĐDT), dân tộc thuộc địa trở nên cấp bách và nóng bỏng trong phong trào cách mạng thế giới và gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Kế thừa, bổ sung và phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về VĐDT trong điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã viết nhiều tác phẩm về VĐDT, cũng như bàn về mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và dân tộc, như: Về quyền dân tộc tự quyết năm 1914; Sơ thảo lần thứ nhất những VĐDT và vấn đề thuộc địa năm 1920. Thông qua những tác phẩm đó, I.Lênin đề cập trực tiếp về quan hệ giai cấp(QHGC) với dân tộc trong cách mạng vô sản (CMVS) được thể hiện ở một số nội dung sau:

Thứ nhất, giải quyết QHGC với dân tộc trong CMVS phải đứng vững trên quan điểm của giai cấp công nhân.

Để đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân khi giải quyết QHGC với dân tộc trong CMVS, theo V.I.Lênin, phải xây dựng một chính đảng thật sự chân chính. Trước hết, Đảng có nhiệm vụ phải thức tỉnh tinh thần cách mạng của họ, đem “học thuyết cộng sản chân chính” đến với tất cả các dân tộc: “… Nhiệm vụ là phải thức tỉnh tính tích cực cách mạng của quần chúng lao động, dù trình độ của họ như thế nào, để làm cho họ hoạt động độc lập và tổ chức nhau lại; phải đem học thuyết cộng sản chân chính dành cho những người cộng sản ở các nước tiên tiến hơn, dịch ra tiếng nói của mỗi dân tộc”1. Bên cạnh đó, Đảng phải: “… nói làm sao cho họ hiểu được rằng, mối hy vọng duy nhất của họ muốn được giải phóng, là thắng lợi của cách mạng thế giới, rằng giai cấp vô sản quốc tế là người bạn đồng minh duy nhất của hàng trăm triệu người lao động và bị bóc lột thuộc các dân tộc phương Đông”2.

Đối với VĐDT, V.I.Lênin cho rằng, Đảng Cộng sản phải đặt ra những nguyên tắc hết sức rõ ràng, cụ thể chứ không phải là các nguyên tắc trừu tượng, hình thức. Các nguyên tắc đó là: “… thứ nhất, sự đánh giá đúng tình hình lịch sử cụ thể, và trước hết, là tình hình kinh tế; thứ hai, sự phân biệt rõ rệt lợi ích của giai cấp bị áp bức, của những người lao động, những người bị bóc lột, với cái khái niệm chung về lợi ích của Nhân dân nói chung, nó chỉ biểu hiện những lợi ích của giai cấp thống trị; thứ ba, phân biệt thật rõ rệt những dân tộc bị áp bức, phụ thuộc, không được hưởng quyền bình đẳng, với những dân tộc đi áp bức, bóc lột, được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi, để đập lại sự lừa dối kiểu dân chủ tư sản đang che giấu việc tuyệt đại đa số Nhân dân trên trái đất bị một thiểu số nhỏ bé những nước tư bản tiên tiến rất mực giàu có, nô dịch về mặt thuộc địa và tài chính ‐ sự nô dịch này là đặc điểm của thời đại tư bản tài chính và chủ nghĩa đế quốc”3.

Thứ hai, xây dựng được tinh thần đoàn kết, khối đoàn kết giữa giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân của tất cả các dân tộc và các quốc gia.

Về xây dựng tinh thần đoàn kết đã được V.I.Lênin đề cập tới trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình một cách sâu sắc và triệt để, nhất là trong thời gian lãnh đạo hoạt động của Quốc tế Cộng sản (từ Đại hội I – IV). Đặc biệt, tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản, V.I.Lênin chỉ rõ rằng, chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới sẽ sụp đổ khi nào cuộc tấn công cách mạng của những công nhân bị bóc lột ở từng nước hòa với cuộc tấn công cách mạng của hàng trăm triệu người bị áp bức ở các thuộc địa và ở các nước lạc hậu: “Từ những luận điểm cơ bản trình bày ở trên, ta thấy rằng điều quan trọng nhất trong chính sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là phải làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản”4. Và, nhiệm vụ của những người cộng sản là: “… một mặt, các đồng chí phải liên minh chặt chẽ với đội tiền phong của tất cả những người lao động ở các nước khác, mặt khác, phải biết cách đối xử đúng đắn với các dân tộc phương Đông mà các đồng chí là những người đại biểu ở đây”5.

Thứ ba, xây dựng một nhà nước liên bang, nhà nước xã hội chủ nghĩa trên cơ sở tự nguyện của các dân tộc.

Một trong những cống hiến to lớn của V.I.Lênin vào lý luận của chủ nghĩa Mác và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội về giải quyết QHGC với dân tộc trong CMVS, là sự luận chứng khoa học của Người về sự cần thiết – đối với các nước cộng hòa Xô‐ viết độc lập – tiến hành hợp nhất tự nguyện, trên cơ sở hoàn toàn bình đẳng, thành một liên bang quốc gia thống nhất: “Liên bang là hình thức quá độ tiến tới thống nhất hoàn toàn những người lao động thuộc các dân tộc khác nhau”6. Và để: “… tiến tới một liên minh liên bang ngày càng chặt chẽ hơn nữa, phải luôn luôn lưu ý rằng, thứ nhất, nếu không có sự liên minh chặt chẽ nhất giữa các cộng hòa Xô‐viết thì không thể bảo toàn được sự tồn tại của các cộng hòa Xô‐viết trong vòng vây của các nước đế quốc hùng mạnh trên toàn thế giới, mạnh hơn nhiều về lực lượng quân sự; thứ hai là, cần phải có một sự liên minh chặt chẽ về kinh tế giữa các cộng hòa Xô‐viết, nếu không thì không thể khôi phục được những lực lượng sản xuất đã bị chủ nghĩa đế quốc phá hủy và không thể bảo đảm được phúc lợi của những người lao động; thứ ba là, xu hướng tạo nên một nền kinh tế toàn thế giới duy nhất, với tính cách là một khối chỉnh thể do giai cấp vô sản thuộc tất cả các dân tộc quản lý theo một kế hoạch chung, xu hướng ấy đã biểu lộ một cách rất rõ rệt dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và chắc chắn là sẽ được tiếp tục phát triển, hoàn thiện dưới chế độ xã hội chủ nghĩa”7.

Thứ tư, thiết lập được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực.

Chúng ta biết rằng: “Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, thì không thể thủ tiêu ách áp bức dân tộc được (và ách áp bức chính trị nói chung). Muốn thủ tiêu nó, cần phải thủ tiêu các giai cấp, nghĩa là, phải thiết lập chủ nghĩa xã hội”8. Nhưng để thủ tiêu áp bức dân tộc đòi hỏi phải có cơ sở xã hội, có một nền dân chủ rộng rãi: “Sự thủ tiêu ách áp bức dân tộc đòi hỏi phải có một cơ sở tức là nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng trên cơ sở đó còn cần phải thiết lập một tổ chức nhà nước dân chủ, một quân đội dân chủ… Sau khi chuyển biến chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản tạo ra khả năng thủ tiêu hoàn toàn ách áp bức dân tộc; nhưng khả năng ấy “chỉ” – “chỉ”! – sẽ biến thành hiện thực, nếu hoàn toàn thiết lập được nền dân chủ trong mọi lĩnh vực, kể cả việc quy định biên giới của quốc gia dựa theo những “tình cảm” của dân cư và kể cả quyền hoàn toàn tự do phân lập. Làm được như thế rồi thì trên thực tế cũng sẽ thủ tiêu hết hẳn được những xích mích dân tộc nhỏ nhất và những ngờ vực nhỏ nhất giữa các dân tộc, đồng thời sẽ tạo ra sự gần gũi và hợp nhất mau chóng giữa các dân tộc kết thúc bằng sự tiêu vong của nhà nước”9.

Thứ năm, giải quyết QHGC với dân tộc trong CMVS dựa trên xu hướng vận động của các dân tộc, cương lĩnh dân tộc.

Khi nghiên cứu sự vận động, phát triển của các dân tộc trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản, thì V.I.Lênin nêu lên hai xu hướng đối lập nhau của sự phát triển xã hội trong những điều kiện của chủ nghĩa tư bản xét về phương diện các mối quan hệ qua lại giữa các dân tộc, mà giai cấp vô sản cần chú ý để giải quyết: “Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, có hai xu hướng lịch sử trong vấn đề dân tộc. Xu hướng thứ nhất là, sự thức tỉnh của đời sống dân tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi ách áp bức dân tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai là, việc phát triển và tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xóa bỏ những hàng rào ngăn cách các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư bản, của đời sống kinh tế nói chung, của chính trị, của khoa học…10. Nó phản ánh xu hướng đi tới chỗ xích lại gần nhau về mặt kinh tế giữa các dân tộc, đi tới chỗ thủ tiêu tất cả những trở ngại gây khó khăn cho đời sống kinh tế và sự phát triển các quan hệ giữa các dân tộc, tức là nó dẫn đến chỗ thủ tiêu tình trạng biệt lập của các dân tộc, tạo ra những quốc gia nhiều dân tộc.

Trong năm 1913 và 1914, V.I.Lênin viết rất nhiều tác phẩm. Tuy nhiên, tác phẩm “Về quyền dân tộc tự quyết” giữ một vị trí đặc biệt ‐ đó là một trong những tác phẩm có tính chất cương lĩnh của đảng cộng sản. Thực chất của cương lĩnh dân tộc, V.I.Lênin khái quát như sau: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại: đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân”11. Như vậy, giải quyết QHGC với dân tộc trong CMVS, giai cấp công nhân không chỉ phải chú ý đến xu hướng vận động của các dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa tư bản, mà còn phải thực hiện tốt Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản.

Cương lĩnh dân tộc mà V.I.Lênin viết là một trong những nội dung mang tính nguyên tắc khi giải quyết QHGC với dân tộc trong CMVS, tuy nhiên, V.I.Lênin cũng chỉ rõ những người cộng sản không nên áp dụng nó một cách máy móc, mà cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể. Người viết: “Lý luận mác‐xít tuyệt đối đòi hỏi người ta khi phân tích bất cứ vấn đề xã hội nào, phải đặt nó trong một bối cảnh lịch sử nhất định; rồi nếu chỉ nói về một nước thôi (chẳng hạn như, nói về cương lĩnh dân tộc đối với một nước nhất định), thì cần phải chú trọng đến những đặc điểm cụ thể, phân biệt nước ấy với các nước khác trong phạm vi cùng một thời đại lịch sử”12.

2. Tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc không chỉ mang bản chất cách mạng, khoa học góp phần vào giải quyết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô mà còn có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc đối với các Đảng Cộng sản và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới.

Một là, tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc góp phần bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác về QHGC với dân tộc trong CMVS.

Trên cơ sở kế thừa quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về QHGC với dân tộc và trong điều kiện lịch sử mới, thông qua thực tiễn CMVS ở nước Nga, V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển, bảo vệ tư tưởng về QHGC với dân tộc của chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới. Sự phát triển đó của V.I.Lênin được thể hiện tập trung vào một số nội dung chủ yếu, như: về quan niệm giai cấp; về QHGC với dân tộc trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc; về QHGC với dân tộc trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội… trong một số tác phẩm tiêu biểu của Người, như: Vấn đề dân tộc trong cương lĩnh của chúng ta (1903); Giai cấp công nhân và vấn đề dân tộc (1913); Đề cương về vấn đề dân tộc (1913); Dự luật về quyền bình đẳng các dân tộc và việc bảo vệ quyền của các dân tộc ít người (1914); Về quyền dân tộc tự quyết (1914); Giai cấp vô sản cách mạng và quyền dân tộc tự quyết (1915); Cách mạng xã hội chủ nghĩa và quyền dân tộc tự quyết(Đề cương) (1916); Tổng kết cuộc tranh luận về quyền tự quyết (1916); Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (1920); Báo cáo tiểu ban về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (1920); Về vấn đề dân tộc (1922);…

Hai là, tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc là cơ sở lý luận để các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế giải quyết mối QHGC với dân tộc trong CMVS.

Tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc là cơ sở để Quốc tế Cộng sản xác định lập trường, thái độ, quan điểm của mình đối với VĐDT thuộc địa, vấn đề giải phóng dân tộc trong thời đại mới. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 19/7 – 07/8/1920 tại Pê-tơ-rô-grát và Mátxcơva; Đại hội thông qua nhiều văn kiện quan trọng, trong đó có văn kiện “Đề cương về VĐDT và vấn đề thuộc địa”, xác định quan điểm, thái độ của người cộng sản với VĐDT và thuộc địa. Với sự lãnh đạo thiên tài của V.I.Lênin, Quốc tế Cộng sản đã khẳng định được vai trò, tầm ảnh hưởng to lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, như: định hướng về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho các nước thuộc địa; giúp đỡ, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào các nước trên thế giới; đào tạo cán bộ cho các đảng cộng sản; chỉ đạo, định hướng hoạt động cho các đảng cộng sản,… Tiêu biểu là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (02/9/1945), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (09/9/1948), Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (01/10/1949),…

Ba là, tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc là cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng, Nhà nước Việt Nam đề ra đường lối, chủ trương, chính sách giải quyết vấn đề giai cấp, dân tộc và mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc là cơ sở lý luận trực tiếp để Chủ tịch Hồ Chí Minh hình thành nên con đường giải phóng dân tộc cho Việt Nam. Tháng 7/1920, khi đang hoạt động tại Paris – Thủ đô nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân Đạo. Ở đây, Người đã tìm ra được “cẩm nang”, con đường để cứu nước, giải phóng dân tộc: Đó là con đường CMVS. Thông qua quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã từng bước cụ thể hóa tư tưởng đó vào trong thực tiễn cách mạng Việt Nam:

Giai đoạn 1930 – 1945. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tại Đại hội thành lập Đảng đã thông qua: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Trong giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định làm cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng ruộng đất, đồng thời đấu tranh xây dựng một xã hội tự do dân chủ, nam nữ bình đẳng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, chấm dứt chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm, xóa bỏ sự đô hộ của thực dân Pháp sau gần một thế kỷ.

Giai đoạn 1945 – 1954. Đảng lãnh đạo Nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, sau 9 năm trường kỳ kháng chiến gian khổ. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Mục tiêu của giai đoạn này là tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Giai đoạn 1954 – 1975. Sau hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương vững chắc cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam. Có thể nói, trong giai đoạn này cả nước dốc lòng cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Việc giải quyết QHGC với dân tộc trong CMVS ở Việt Nam giai đoạn này mang tính đặc thù, thể hiện tư duy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ, đó là, nhiệm vụ giai cấp và nhiệm vụ dân tộc. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước – kỷ nguyên của độc lập, tự do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.

Giai đoạn sau năm 1975. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách từ bên trong và bên ngoài; với sự đoàn kết thống nhất về nhận thức, hành động, được lòng dân, các vấn đề khó khăn, phức tạp đều được giải quyết linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Đặc biệt, tại Đại hội IX, Đảng ta một lần nữa khẳng định về QHGC, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng”13.Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tiếp tục các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI – Đại hội XII về giải quyết mối quan hệ dân tộc – giai cấp trong thời kỳ mới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng năm 2021 khẳng định quan điểm chỉ đạo: “Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng… Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”14.

Bốn là, tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc là cơ sở khoa học để đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, phản động về QHGC với dân tộc hiện nay

Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân cho thấy, trong bất kỳ thời điểm lịch sử nào, các thế lực thù địch luôn tìm đủ mọi âm mưu, thủ đoạn để xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin trên tất cả các nội dung, trong đó có xuyên tạc, phá hoại tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc trong CMVS. Ở mỗi giai đoạn khác nhau thì chúng có những thủ đoạn, hình thức, biện pháp chống phá khác nhau. Vì vậy, để bảo vệ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc nói riêng thì phải tăng cường đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, luận điểm xuyên tạc nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phủ nhận chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đề cao chủ nghĩa dân tộc tư sản,… việc đấu tranh ấy phải xem như là đòi hỏi khách quan, là nhiệm vụ trước mắt, đồng thời cũng là nhiệm vụ, cơ bản, lâu dài, thường xuyên, xuyên suốt sự nghiệp cách mạng.

Đấu tranh với những luận điệu sai trái, phản động đối với vấn đề giai cấp, VĐDT và mối QHGC với dân tộc trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa phải đi đôi với nghiên cứu, phát triển, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc nói riêng. Đảng, Nhà nước cần làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của Nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên về những nội dung trên. Giá trị khoa học tư tưởng của V.I.Lênin về QHGC với dân tộc trước tiên phải thấm nhuần trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, bởi họ chính là chủ thể để cụ thể hóa, thực hiện, đấu tranh bảo vệ, tuyên truyền và phổ biến những tư tưởng ấy.

Hơn 92 năm ra đời, phát triển của Đảng và hơn 36 năm đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay”15 đã chứng minh sự kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về QHGC với dân tộc trong CMVS. Những sách lược, chiến lược của Đảng đề ra cho từng giai đoạn là đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với xu thế khách quan của thế giới, Đảng ta nhận định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”16.

Chú thích:
1, 2, 4, 5, 7, 9, 12. V.I.Lênin toàn tập. Tập 39. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr. 373, 374, 199, 374, 201, 27 – 28, 308, 104.
3, 6. V.I.Lênin toàn tập. Tập 41. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr.198 – 199, 200.
8. I.Lênin toàn tập. Tập 30. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr.27.
10.V.I.Lênin toàn tập. Tập 24. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr.158.
11. I.Lênin toàn tập. Tập 25. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr. 375.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị quốc gia, 2001, tr. 22.
14, 15, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 109, 25, 35.
TS. Trần Việt Hưng – NCS. Lê Xuân Huấn
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng