(Quanlynhanuoc.vn) – Hàn Quốc là quốc gia có nền kinh tế phát triển, một trong những thành viên dẫn đầu của nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G-20). Cuối thế kỷ XX, Hàn Quốc nằm trong số các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại và được ví như những “con rồng châu Á”. Có được thành công này là nhờ Hàn Quốc đã sớm xây dựng thành công mô hình nhà nước kiến tạo phát triển để dẫn dắt quốc gia theo định hướng đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại. Đây được coi là hình mẫu tiêu biểu để nhiều quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam tham khảo học hỏi trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Kinh nghiệm xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển của Hàn Quốc
Nhà nước kiến tạo phát triển (NNKTPT) (developmental state) là khái niệm được sử dụng phổ biến từ khoảng những năm 80 của thế kỷ XX để mô tả về vai trò trung tâm của Nhà nước trong mô hình tăng trưởng kinh tế thần kỳ của các quốc gia Đông Á. Mô hình này cũng được đánh giá là mô hình Nhà nước “trung gian” giữa Nhà nước điều chỉnh của các quốc gia phương Tây (theo chủ thuyết thị trường tự do) và Nhà nước kế hoạch hóa tập trung (theo mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống). Ở mô hình NNKTPT, Nhà nước không đứng ngoài, cũng không làm thay thị trường mà chủ động can thiệp vào thị trường để thúc đẩy phát triển và thực hiện các mục tiêu phát triển đã được đặt ra. Hay nói cách khác, mô hình NNKTPT tận dụng được ưu điểm và khắc phục được những hạn chế của hai mô hình Nhà nước trên.
Mặc dù còn có những quan điểm chưa đồng nhất về các tiêu chí để đánh giá mô hình NNKTPT chuẩn mực, song có thể hiểu chung về mô hình này thông qua đặc trưng chủ yếu là Nhà nước tham gia tích cực vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, thay vì để thị trường tự vận hành. Hay có thể hiểu theo quan điểm sau: “Nhà nước kiến tạo phát triển là một mô hình quản lý nhà nước, trong đó Nhà nước đề ra các thể chế mang tính định hướng phát triển, tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế, đồng thời Nhà nước tăng cường giám sát để phát hiện và khắc phục kịp thời các mất cân đối có thể xảy ra nhằm bảo đảm phát triển bền vững”1.
Tại các quốc gia châu Á, mô hình NNKTPT của Hàn Quốc được đánh giá là có nhiều ưu điểm tích cực và thành công. Đặc trưng và vai trò của NNKTPT của Hàn Quốc có thể được nhìn nhận thông qua các điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, về thể chế và bộ máy nhà nước.
Từ những năm 60 thế kỷ XX, với quyết tâm phát triển đất nước nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển, chính quyền của cố Tổng thống Park đã đặt mục tiêu ưu tiên lớn nhất cho phát triển kinh tế, từ đó Nhà nước phát triển ra đời. Tuy nhiên, thời điểm đó, bộ máy chính quyền và đội ngũ công chức của Hàn Quốc rất tồi tệ. Đa số các quan chức cấp cao đều có trình độ học vấn thấp và vướng nhiều vào tệ nạn tham nhũng, chỉ có 2/3 cán bộ cấp trung trong Chính phủ tốt nghiệp phổ thông trung học và không được đào tạo lại, 80% cán bộ cấp cao được đề bạt do thâm niên công tác. Hầu hết họ không có ý chí, thiếu tinh thần đổi mới, chủ yếu là làm theo thông lệ và tập quán2. Điều này, đã khiến cho chính quyền ngày càng xa rời người dân, còn người dân thì ngày càng mất niềm tin vào bộ máy chính quyền.
Với quyết tâm làm trong sạch bộ máy hành chính nhà nước, chính quyền của cố Tổng thống Park đã nhanh chóng thanh lọc cán bộ tham nhũng, không đủ năng lực, thay thế họ bằng những nhân sự mới có tài thông qua cơ chế thi tuyển quốc gia nghiêm ngặt, cạnh tranh, công khai và cơ chế tuyển dụng đặc biệt, không qua thi tuyển. Cùng với đó, áp dụng hàng loạt chính sách, cơ chế đột phá nhằm tạo động lực về vật chất và tinh thần nên thu hút được ngày càng nhiều người tài vào bộ máy hành chính, cống hiến vì sự phát triển của quốc gia. Những chính sách này đã nhanh chóng phát huy tác dụng và Hàn Quốc đã sớm xây dựng được đội ngũ công chức tài năng, chuyên nghiệp để vận hành hiệu quả bộ máy hành chính thúc đẩy Nhà nước phát triển, tạo nên sự phát triển bứt phá thần tốc, giúp Hàn Quốc nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển.
Hàn Quốc cũng chú trọng đầu tư phát triển mạng lưới hạ tầng thông tin thuộc loại tốt nhất thế giới, với hệ thống điện tử xử lý công việc hành chính nội bộ kết nối các cơ quan hành chính, các dịch vụ công, kể cả dịch vụ hành chính được cung cấp thông qua mạng internet và điện thoại di động, việc xử lý, giải quyết các vấn đề của người dân, doanh nghiệp (DN) được công khai trên mạng internet…3
Thứ hai, về chính sách điều hành kinh tế vĩ mô.
Tại Hàn Quốc, quan hệ hợp tác giữa Nhà nước và DN được thể chế hóa cho tổng thể các ngành chiến lược nhằm tạo điều kiện cho việc xây dựng và áp dụng chính sách công nghiệp một cách dài hơi4. Đây cũng là một trong những đặc trưng căn bản của mô hình NNKTPT với việc xây dựng các chương trình công nghiệp hóa (CNH) tham vọng và can thiệp mạnh mẽ vào thị trường để thúc đẩy chương trình đó.
Nhiều học giả khi nghiên cứu về mô hình Nhà nước kiến tạo nói chung và các NNKTPT ở khu vực châu Á như Hàn Quốc nói riêng cũng nhận định, mô hình NNKTPT có đặc điểm quan trọng là “embedded autonomy”, nghĩa là Nhà nước phải nhúng mình vào thị trường, gắn bó với DN để thực sự hiểu DN, hiểu thị trường mới có những chính sách đúng đắn nhưng đồng thời, Nhà nước phải giữ được sự độc lập. Nếu không, Nhà nước có nguy cơ bị chi phối, bị thao túng và trở nên tham nhũng. Đó là ranh giới rất khó khăn khi nhận thức về vai trò của Nhà nước.
Các nước Đông Bắc Á nói chung và Hàn Quốc nói riêng thành công khi xây dựng được mô hình NNKTPT phần lớn là do giữ được ranh giới này. Nhờ đó, một mặt họ rất am hiểu thị trường, mặt khác họ vẫn giữ được tính độc lập, sự liêm chính, trọng dụng nhân tài. Do vậy, các chính sách của các nước này giúp khai phóng được năng lượng để đất nước phát triển vượt bậc5.
Thứ ba, về chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp và hướng ra xuất khẩu.
Nhận thức sâu sắc được vai trò và tầm quan trọng của quá trình CNH đối với việc phát triển kinh tế và thoát nghèo, các nhà lãnh đạo của Hàn Quốc đã sớm có những chính sách ưu tiên phát triển CNH, định hướng xuất khẩu, đồng thời kết nối các cơ quan nhà nước lẫn các DN tư nhân để đạt được các mục tiêu. Trong đó, chính sách về chuyển đổi chiến lược kinh tế từ chính sách sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu sang chiến lược sản xuất hàng hóa xuất khẩu nhằm tận dụng tối đa nguồn lao động rẻ, duy trì lãi suất cao để khuyến khích người dân tiết kiệm tái đầu tư.
Hàn Quốc cũng đặc biệt khuyến khích tư bản nước ngoài. Ngay từ năm 1962, đã có tới 83% vốn nước ngoài được đầu tư vào nền công nghiệp Hàn Quốc. Do kế hoạch kinh tế hiệu quả, xuất phát từ nhu cầu thị trường kinh tế thế giới, nên chỉ 10 năm sau, Hàn Quốc đã đạt được lượng xuất khẩu hàng hóa đủ để trả nợ nước ngoài. Đặc biệt, nhờ nắm bắt và dự báo sớm được tiềm năng của thị trường thế giới, năm 1973 Chính phủ Hàn Quốc đã tuyên bố kế hoạch phát triển công nghiệp hóa chất và công nghiệp nặng, bao gồm các máy móc kỹ thuật phức tạp, máy phát điện, máy móc hạng nặng, máy diesel, công nghệ đóng tàu, kỹ nghệ xe hơi. Nhờ đó, tính riêng giai đoạn năm 1973 – 1996, tăng trưởng kinh tế hằng năm của Hàn Quốc đạt 11,2%. Ngày nay, rất nhiều thương hiệu công nghiệp nói chung và điện tử nói riêng của Hàn Quốc như: Samsung, LG, Huyndai, Daewoo… đã phủ rộng và có tầm ảnh hưởng lớn tại rất nhiều quốc gia trên thế giới6.
Thứ tư, về chính sách đối với GDĐT.
Trong giai đoạn đầu CNH, vào những năm 60 – 70 của thế kỷ XX, Hàn Quốc tập trung phát triển công nghiệp nhẹ và điện tử nên ưu tiên hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, phát triển giáo dục trung học cơ sở, khuyến khích trung học nghề và kỹ thuật, hạn chế chỉ tiêu giáo dục đại học. Mục tiêu của giai đoạn này là khuyến khích các tổ chức, DN tham gia đào tạo nghề nhằm tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng cho các DN có nhu cầu. Các trường, trung tâm dạy nghề phát triển nhanh và ngày càng mở rộng quy mô.
Đến những năm 80, khi chuyển từ sản xuất công nghệ trung bình sang công nghệ cao, Hàn Quốc tập trung mở rộng quy mô giáo dục phổ thông, đẩy mạnh đào tạo nghề, nới rộng chỉ tiêu nhập đại học theo hướng phát triển các trường cao đẳng nghề và kỹ thuật. Các trình độ từ dạy nghề đến trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học thường xuyên được điều chỉnh về quy mô và chất lượng cho phù hợp với yêu cầu về nguồn nhân lực của tiến trình CNH và kinh tế tri thức. Hiện nay, Hàn Quốc có tỷ lệ dân số tốt nghiệp đại học cao so với các nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) mà Hàn Quốc là thành viên. Tuy nhiên, Hàn Quốc vẫn chú trọng củng cố giáo dục phổ thông làm nền móng cho công tác đào tạo nhân lực.
Ngoài ra, giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật cũng được coi trọng ngay từ cấp trung học. Ngay trong chương trình giáo dục phổ thông, tính thực hành được coi trọng hơn tính hàn lâm. Sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, học sinh được phân luồng vào trường trung học phổ thông và trung học nghề. Hàn Quốc cũng ban hành Luật Thúc đẩy giáo dục công nghiệp tạo điều kiện cho các trường trung học nghề, chương trình đào tạo công nghiệp và đào tạo tại nhà máy ở Hàn Quốc. Với mục tiêu chính của cải cách giáo dục ở Hàn Quốc hướng đến là xây dựng một hệ thống giáo dục mở, tạo cơ hội cho tất cả mọi người học tập suốt đời để họ có thể trở thành những người có đủ kiến thức, năng lực đáp ứng nhu cầu của xã hội thông tin và toàn cầu hóa7.
Một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Hàn Quốc và Việt Nam là các quốc gia châu Á có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa và đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng Nho giáo. Do đó, những kinh nghiệm trong quản lý nhà nước nói riêng và phát triển đất nước trên các lĩnh vực nói chung của Hàn Quốc là những kinh nghiệm quý báu, có thể được chắt lọc và áp dụng thành công ở Việt Nam. Tham khảo những điểm tích cực trong mô hình NNKTPT của Hàn Quốc nhằm gợi ý một số chính sách hữu ích cho quá trình xây dựng và phát triển mô hình NNKTPT ở Việt Nam trên những góc độ sau:
Một là, về xây dựng thể chế và tổ chức bộ máy nhà nước.
Trên thực tế, hệ thống thể chế và bộ máy nhà nước của Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Từ năm 1991, Đảng ta đã có định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội XI của Đảng và Hiến pháp năm 2013 đã đề cập và dần cụ thể nguyên tắc kiểm soát giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vai trò của Quốc hội được tăng lên. Tuy nhiên, chất lượng ban hành luật còn thấp do số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách còn ít, hầu hết các bộ luật đều được các cơ quan khác nhau của Chính phủ chuẩn bị và đệ trình. Hệ thống pháp luật thiếu tính độc lập, nên việc ngăn chặn lạm dụng quyền lực của các quan chức nhà nước là rất khó khăn. Hơn nữa, bộ máy tư pháp thiếu độc lập tương đối, dẫn đến không thể kiểm soát được việc lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước.
Bên cạnh đó, không chỉ đòi hỏi khắc phục những hạn chế để hoàn thiện hệ thống thể chế, mô hình NNKTPT cũng đòi hỏi nền hành chính công vụ phải thực sự tinh hoa, tức là có một bộ máy hành chính gọn nhẹ và hiệu quả, đồng thời được trao một số quyền năng để đưa ra những sáng kiến và vận hành hiệu quả. Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam do bộ máy hành chính còn cồng kềnh. Việc tinh giản biên chế chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tuy đã được nâng lên so với trước nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Xây dựng cơ cấu đội ngũ công chức, viên chức theo vị trí việc làm chưa được hoàn thành; công tác cải cách tiền lương triển khai còn chậm, tiền lương chưa thực sự là động lực thúc đẩy cán bộ, công chức thực thi công vụ8. Do đó, trong thời gian tới, cần đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả tổ chức bộ máy nhà nước, đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ một cách quyết liệt hơn mới có thể đáp ứng được các yêu cầu của xây dựng và phát triển mô hình chính phủ kiến tạo phát triển, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất nước.
Thứ hai, về chính sách điều hành kinh tế vĩ mô.
Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước luôn được thể hiện rất rõ đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ, củng cố an ninh – quốc phòng, cung cấp hàng hóa công cộng, chống ô nhiễm môi trường, phát triển giáo dục tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi xã hội, tạo dựng một bộ khung xã hội được sự điều hành của luật pháp,… Quản lý nhà nước về kinh tế đã chuyển đổi căn bản sang phương thức quản lý chủ yếu bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế; nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập và phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, Nhà nước hiện vẫn còn thiếu công cụ và cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm các chủ thể tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ “luật chơi” đã đề ra. Công tác kế hoạch và quy hoạch của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn bất cập, chưa phù hợp với thực tế. Ngoài ra, còn có sự nhầm lẫn giữa chức năng của Nhà nước và thị trường. Kinh tế thị trường được vận hành với sự tham gia của ba chủ thể chính: người sản xuất, người tiêu dùng và nhà nước. Nhưng trong quản lý nền kinh tế của Việt Nam hiện nay vẫn còn có sự lẫn lộn về vị trí, vai trò của ba chủ thể này. Nhiều việc Nhà nước cần phải làm, nhưng lại không làm hoặc làm không đầy đủ.
Trong mô hình của NNKTPT như trên đã đề cập, vai trò của Nhà nước trong mô hình này rất quan trọng ở chỗ phải vừa phải “gần gũi” với DN nhưng vừa phải giữ được tính độc lập. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam, vai trò thực hiện chiến lược CNH được giao cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Trong khi đó, ở nhiều thời điểm trước đây, Nhà nước cũng không giữ được sự độc lập tương đối với DN, can thiệp quá sâu vào quá trình quản lý của DN. Mặt khác, tại các DN nhà nước, việc đổi mới quản trị còn chậm, cơ chế đãi ngộ, xử lý trách nhiệm vẫn theo quy định như cơ quan hành chính nên không tạo được động lực khuyến khích cán bộ dám chủ động, đổi mới.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó, quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII đã khẳng định: “Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”9. Như vậy, chỉ khi nào việc phân vai giữa Nhà nước – thị trường và xã hội được làm rõ, được quy định bởi pháp luật, bằng các chức năng, nhiệm vụ cụ thể, thì khi đó mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội mới là biện chứng, tương hợp và hỗ trợ cho nhau. Đây cũng là một trong những nội dung chủ yếu của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XII) về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Thứ ba, về chính sách phát triển công nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu.
Muốn đẩy mạnh quá trình CNH, hiện đại hóa nói chung và phát triển kinh tế đất nước nói riêng, việc ưu tiên các chính sách cho phát triển công nghiệp là vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các chính sách phát triển công nghiệp nhìn chung còn mang tính dàn trải, thiếu trọng tâm trọng điểm nên chưa mang lại nhiều hiệu quả như mong đợi. Do đó, trong điều kiện nguồn lực đầu tư có hạn, để thúc đẩy phát triển công nghiệp trong thời gian ngắn, yêu cầu phải thu hẹp phạm vi các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp ưu tiên trở nên cấp thiết.
Cùng với chính sách phát triển công nghiệp, việc đẩy mạnh xuất khẩu cũng là một trong những chiến lược quan trọng theo kinh nghiệm của Hàn Quốc. Thực tế cho thấy, tất cả các quốc gia “hóa rồng” đều có tỷ lệ FDI trong tổng đầu tư xã hội cũng như đóng góp của FDI trong GDP thấp. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam sau hàng thập kỷ công nghiệp hoá nhìn chung vẫn còn có giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài (FDI). Mặc dù ngoại lực là quan trọng nhưng về bản chất nội lực mới quyết định năng lực cạnh tranh và sức sống của một quốc gia.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, Chính phủ nước này rất ưu tiên cho các DN công nghiệp, điện tử ở khu vực tư nhân làm ăn có hiệu quả để vươn ra cạnh tranh trên thị trường thế giới, tạo nên những kỳ tích về năng suất, chất lượng, thương hiệu. Do đó, Việt Nam cũng nên tham khảo để lựa chọn phát triển một số ngành công nghiệp theo lợi thế của quốc gia, một số ngành dịch vụ và công nghệ hiện đại, không chỉ theo định hướng xuất khẩu, mà rộng hơn phải theo hướng hội nhập quốc tế. Và mô hình này phải được điều chỉnh thích ứng với những điều kiện cụ thể. Hay nói cách khác, để thúc đẩy sự phát triển của quốc gia, trong giai đoạn mới cần lựa chọn ngành mũi nhọn, ưu tiên để đẩy mạnh xuất khẩu, coi đây là động lực của tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; đồng thời bảo đảm phát triển xuất khẩu, nhập khẩu bền vững với cơ cấu cân đối, hài hòa, phát huy lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh, phát triển thương hiệu sản phẩm, hàng hóa Việt Nam, nâng cao vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ tư, về chính sách đổi mới giáo dục – đào tạo (GDĐT).
Nâng cao dân trí và cải cách giáo dục là một trong những giải pháp và động lực quan trọng của quá trình xây dựng NNKTPT nói riêng và cho sự phát triển đất nước của mỗi quốc gia nói chung. Tại Hàn Quốc, những chính sách đúng đắn trong quá trình cải cách giáo dục không chỉ giúp quốc gia này nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước mà còn trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cho nền công vụ – đội ngũ chủ chốt của NNKTPT.
Thực tế sau hơn 35 năm đổi mới đất nước, mặc dù sự nghiệp GDĐT của nước ta đã có những chuyển biến tích cực cả về quy mô, số lượng, chất lượng, hiệu quả, cả về nội dung, phương pháp, phương thức đào tạo và đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục,… song khách quan nhìn nhận, việc đổi mới GDĐT chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Những hạn chế đó không chỉ thể hiện trên bình diện tư duy, chính sách, giải pháp, tổ chức hệ thống, công tác tổ chức, cán bộ, mà còn cả về mặt giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, giáo dục nghề nghiệp, kỹ năng thực hành, giáo dục kết hợp nghiên cứu khoa học, đầu tư cho giáo dục chưa theo kịp yêu cầu phát triển… Đó là chưa kể đến những thay đổi như vũ bão của khoa học – công nghệ của thời đại 4.0 đặt ra những đòi hỏi phải kịp thời đổi mới cách tiếp cận, nội dung, phương pháp GDĐT. Đây là yêu cầu cấp thiết, khách quan, phù hợp với mục tiêu GDĐT và yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài.
Do đó, trong giai đoạn mới, cần tiếp tục xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương GDĐT là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân; xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế,… phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về GDĐT ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế.