Đánh giá thương mại và hội nhập quốc tế của Việt Nam năm 2022 và hàm ý chính sách

(Quanlynhanuoc.vn) – Sau 36 năm đổi mới và phát triển theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã gặt hái nhiều thành tựu, trong đó có lĩnh vực thương mại. Các hiệp định tự do (FTAs) được hình thành, phát triển và triển khai sâu rộng, có hiệu quả và chất lượng, góp phần đưa nền kinh tế đất nước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế hiện nay đang đặt ra những thách thức đối với đối với các chính sách thương mại của nước ta. Bài viết tổng hợp, phân tích, đánh giá những thành tựu, thách thức và cơ hội thương mại và hội nhập quốc tế trong năm 2022, đề xuất các giải pháp đổi mới chính sách thương mại và hội nhập quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời gian tới.
Ảnh minh họa (nguồn: moit.gov.vn)
Đặt vấn đề

Trong những năm qua, tự do thương mại được coi là một đòn bẩy chính sách quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu cũng như kinh tế khu vực. Kể từ khi tiến hành công cuộc Đổi mới năm 1986, Việt Nam đã có những bước tiến nhất định trong quá trình hội nhập, bắt đầu với việc gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995 và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) năm 1998. Tính đến năm 2022, Việt Nam đã ghi dấu ấn với việc tham gia 15 hiệp định thương mại tự do (FTAs), trong đó có các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như: EVFTA, CPTPP…

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức đặt ra đối với Việt Nam trong quá trình phục hồi thương mại và hội nhập quốc tế. Đặc biệt là năm 2022, thế giới đã và đang trải qua rất nhiều biến động khó lường về kinh tế – xã hội. Vì vậy, cần có sự đánh giá tổng quan hoạt động thương mại và hội nhập của Việt Nam trong năm 2022, từ đó, phân tích cơ hội, thách thức và đề ra các chính sách nhằm thúc đẩy thương mại và hội nhập trong tương lai.

Bối cảnh tình hình kinh tế – xã hội thế giới và Việt Nam năm 2022

Năm 2022, thế giới trải qua những diễn biến hết sức phức tạp, vấn đề đứt gãy nguồn cung, giá nhiên liệu, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất tăng cao vẫn chưa được khắc phục hoàn toàn do ảnh hưởng bởi dịch bệnh thì nay trầm trọng hơn bởi xung đột quân sự giữa Nga – Ukraine và các biện pháp trả đũa qua lại giữa Nga và phương Tây; điều này khiến hoạt động sản xuất chịu nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, lạm phát ở châu Âu, Hoa Kỳ… ghi nhận ở mức cao, thậm chí nhiều nền kinh tế còn dự báo nguy cơ suy thoái khiến cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá ảnh hưởng tiêu cực do cầu tiêu dùng hạn chế.

Năm 2022, trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động đầy phức tạp, Việt Nam vẫn vượt lên trên những điều kiện bất lợi và có những điểm sáng tích cực về kinh tế – xã hội. Theo đó, vào tháng 12/2022, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra dự báo mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,5% trong năm 20221. Tổng thu ngân sách Nhà nước 11 tháng năm 2022 đạt 1.638,9 nghìn tỷ đồng, bằng 116,1% dự toán năm. Tổng chi ngân sách nhà nước lũy kế 11 tháng năm 2022 ước đạt 1.359,0 nghìn tỷ đồng, bằng 76,2% dự toán năm, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh, quản lý nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn, thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động và khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh2. Bên cạnh đó, tình hình phát triển xã hội của đất nước trong năm 2022 cũng để lại những dấu ấn khởi sắc. Tình hình lao động, việc làm trong năm tiếp tục đà phục hồi, lực lượng lao động, số người đang làm việc và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm giảm so với cùng kỳ năm trước. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện; chương trình xây dựng nông thôn mới đã có những tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn.

Tình hình thương mại và hội nhập quốc tế của Việt Nam năm 2022

Tình hình thương mại năm 2022

Năm 2022, dù chịu tác động của tình hình kinh tế – xã hội trên toàn thế giới, song hoạt động thương mại của Việt Nam vẫn diễn ra sôi nổi, tích cực. Liên tục trong nửa đầu của năm, cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt hoặc thặng dư rất thấp. Tuy nhiên, kể từ tháng 7/2022, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư ngày càng tăng. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê (năm 2022), sau 11 tháng của năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 673,82 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa đạt 342,21 tỷ USD (tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2021); tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa đạt 331,61 tỷ USD (tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2021). Dự tính sau 11 tháng của năm 2022, cán cân thương mại đạt thặng dư lớn với con số xuất siêu 10,7 tỷ USD3.  Tuy nhiên, trong khoảng 2 năm trở lại đây, nền kinh tế đã gặp những khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid -19, dẫn đến cán cân thương mại tổng thể của Việt Nam bị giảm đi rất nhiều. Số liệu của Ngân hàng thế giới (WB) cho thấy, cán cân thương mại năm 2021 của Việt Nam chỉ đạt khoảng 1,96 tỷ USD, giảm hơn 90% so với năm 20224. Vì vậy, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến cán cân thương mại dịch vụ trong quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch.

Về xuất khẩu, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục là động lực cho tăng trưởng chung của xuất khẩu, với tỷ trọng đạt khoảng 89%. Có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,7% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 70,1%). Sau 11 tháng, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm 1,4%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 89%, bằng cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản, lâm sản chiếm 6,6%, giảm 0,5 điểm phần trăm; nhóm hàng thủy sản chiếm 3%, tăng 0,3 điểm phần trăm5.

Các sản phẩm công nghệ và điện tử, nhất là điện thoại di động, góp phần lớn nhất vào tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. 11 tháng năm 2022, nhóm hàng sản phẩm điện thoại các loại và linh kiện ước đạt 55,4 tỷ USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện ước đạt 50,5 tỷ USD, tăng 11%6. Việt Nam đang mở rộng chuỗi cung ứng, tham gia mạnh mẽ hơn vào chuỗi giá trị. Ngành dệt may, giày dép, vốn cần nhiều lao động, cũng đang có xu hướng khởi sắc. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu dệt, may trong 11 tháng ước đạt 34,5 tỷ USD, tăng 18,5%. Nhóm hàng giày dép ước đạt 22,1 tỷ USD, tăng mạnh 39,9%. Ngoài ra, Việt Nam hiện đang là một trong những nước xuất khẩu sản phẩm gỗ lớn nhất thế giới. Các doanh nghiệp (DN) gỗ của Việt Nam cũng đã nhận được một số lượng lớn đơn đặt hàng trong năm 2022. Tính đến hết tháng 11 năm 2022, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ ước đạt 14,6 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước7.

Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày một đa dạng, với giá trị xuất khẩu sang các thị trường là đối tác FTA hầu hết đều tăng rất cao như: Ca – na – da đạt 5,4 tỷ USD, tăng 28,6%; Hàn Quốc đạt 20,7 tỷ USD, tăng 15,6%; Nhật Bản đạt 19,9 tỷ USD, tăng 22%; Ấn Độ đạt 6,7 tỷ USD, tăng 29,8%, Ốt – xtrây – li – a  đạt 4,7 tỷ USD, tăng 34,3%; Niu – Di – lân đạt 602 triệu USD, tăng 12,8%; sang ASEAN tăng 23,3%, sang EU tăng 23,5%8.

Về nhập khẩu, năm 2022 tình hình nhập khẩu cơ bản đã bảo đảm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu sau 11 tháng là 331,61 tỷ USD (tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2021). Trong đó, nhập khẩu của khu vực DN 100% vốn trong nước đạt 115,4 tỷ USD, tăng 11,2% so với cùng kỳ; nhập khẩu của khu vực DN FDI đạt 216,2 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ. Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 11 tháng, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,6%, tỷ trọng bằng cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 44,7%, giảm 1,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 48,9%, tăng 1,8 điểm phần trăm. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng chiếm 6,4%, bằng cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, thị trường nhập khẩu của Việt Nam cũng cho thấy sự đa dạng, với tỷ trọng châu Á đạt 82,0%, châu Âu đạt 5,3%, châu Mỹ đạt 7,0%, châu Phi đạt 0,7%, châu Đại Dương đạt 3,0% 9.

Nhìn chung, năm 2022 là một năm khởi sắc đối với hoạt động thương mại của Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình kinh tế – xã hội trên toàn thế giới gặp nhiều biến động, bất ổn chính trị, lạm phát cao,… Việt Nam vẫn bảo đảm hoạt động xuất, nhập khẩu diễn ra sôi nổi, đa dạng, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Đồng thời, thương mại năm 2022 cũng là một điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. Cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đạt thặng dư lớn với con số xuất siêu 10,7 tỷ USD sau 11 tháng của năm, cao hơn 15 lần so với cùng kỳ năm 2021 10. Tuy nhiên, cán cân thương mại dịch vụ vẫn ở mức thâm hụt khoảng hơn 3 tỷ USD, nên nếu tính cả cán cân thương mại dịch vụ thì tổng thặng dư là quá cao. Điều này có nghĩa là trong những năm tới, Việt Nam cần quan tâm và có những chính sách để giảm thâm hụt cán cân thương mại dịch vụ.

Về tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến hết tháng 11 năm 2022, Việt Nam thu hút khoảng 25,1 tỷ USD tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, bằng 95% so với cùng kỳ năm 2021, tăng 0,4% so với 10 tháng và tăng 10,3% so với 9 tháng. Trong 11 tháng của năm 2022, có 19/21 ngành kinh tế quốc dân nhận được vốn FDI. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 14,96 tỷ USD, chiếm 59,5% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư gần 4,19 tỷ USD, chiếm 16,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần lượt là các ngành sản xuất, phân phối điện; hoạt động chuyên môn khoa học – công nghệ, với vốn đăng ký đạt lần lượt gần 2,26 tỷ USD và gần 1,03 tỷ USD. Xét về đối tác đầu tư, đã có 107 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam trong 11 tháng năm 2022. Trong đó, Xinh – ga – po dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 5,78 tỷ USD, chiếm 23% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 24% so với cùng kỳ 2021; Nhật Bản đứng thứ hai với trên hơn 4,6 tỷ USD, chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư, tăng 24,4% so với cùng kỳ.Tính đến hết tháng 11, các nhà đầu tư FDI đã có mặt ở toàn bộ 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó TP. Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với gần 55,8 tỷ USD (chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với gần 39,6 tỷ USD (chiếm 9,1% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với hơn 38,6 tỷ USD (chiếm 8,8% tổng vốn đầu tư) 11. Ngoài ra, năm 2022 cũng đánh dấu sự kiện hoàn thành xây dựng Trung tâm nghiên cứu và Phát triển mới của Samsung tại, khẳng định những đóng góp thực tế và giá trị của nguồn vốn FDI chất lượng cao cho Việt Nam.

Để đạt được những thành công này, có hai lý do cơ bản: Việt Nam đã sớm kiểm soát được đại dịch COVID-19 và lựa chọn thời điểm phù hợp để mở cửa nền kinh tế, nhằm tranh thủ thị trường quốc tế đang khan hiếm hàng hóa, từ đó tranh thủ cơ hội đẩy mạnh thương mại. Đồng thời, việc đẩy mạnh thương mại và hội nhập được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam sớm phục hồi và ổn định kinh tế-chính trị, đồng thời có thêm tiềm năng cho đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…, từ đó càng củng cố vị thế và uy tín để thu hút thêm các đối tác và tăng cơ hội gia nhập các FTA trong tương lai.

Tình hình hội nhập quốc tế của Việt Nam

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả” 12. Sau hơn 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới cũng như hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và đang khẳng định được vị trí trong khu vực và nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế. Đồng thời, Việt Nam cũng đã gia nhập và đang đàm phán với các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiêu chuẩn cao.

Tính đến năm 2022, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang đàm phán 2 FTA khác. Trong số các FTA mà Việt Nam tham gia, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) năm 2018 là FTA thế hệ mới đầu tiên, tiếp đó là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) năm 2020.

Trong năm 2022, Việt Nam cũng chính thức gia nhập Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Đây là hiệp định giữa 10 thành viên ASEAN và 6 đối tác, bao gồm: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ốt – xtrây – li – a, Ấn Độ và Niu – Di – lân. Đây là khối thương mại được xem là lớn nhất trên thế giới, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và được kỳ vọng xóa bỏ 90% thuế quan trong vòng 20 năm tới giữa các thành viên RCEP13. Đối với Việt Nam, việc gia nhập RCEP trong năm 2022 được kỳ vọng sẽ giúp đất nước thúc đẩy hoạt động thương mại cũng như phục hồi kinh tế sau đại dịch. Các mặt hàng xuất khẩu chính hưởng lợi từ RCEP bao gồm công nghệ thông tin, dệt may, da giày, nông nghiệp, ô tô và viễn thông. Trong dài hạn, hiệp định này sẽ tạo ra nền tảng để tạo dựng một chuỗi cung ứng mới trong khu vực, trong đó vai trò của Việt Nam là hết sức quan trọng.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang trong quá trình đàm phán các FTA, bao gồm Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Khối EFTA (VN-EFTA FTA) (bao gồm 4 nước Thụy Sỹ, Na – uy, Ai – len, Lich – tan – xtai)  và Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Isarel (VIFTA). Trong khi hiệp định với Khối EFTA đã trải qua 16 vòng đàm phán chính thức và đang có dấu hiệu chững lại khi vòng đàm phán cuối cùng diễn ra vào tháng 6/2019, thì với VIFTA, trong năm 2022, Bộ Công Thương đã liên tục thúc đẩy việc nối lại đàm phán và nỗ lực xử lý những vấn đề còn tồn tại để có thể sớm kết thúc đàm phán trên cơ sở cân bằng lợi ích của cả hai phía, theo đó, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Ngoài ra, nhằm duy trì công tác đàm phán trong tình hình dịch bệnh Covid -19 đang diễn biến phức tạp ở cả Việt Nam và I – xra – en nửa đầu năm, đoàn đàm phán hai nước đã tích cực tổ chức, trao đổi các nội dung đàm phán qua hình thức họp trực tuyến. Phiên đàm phán thứ 11 thuộc khuôn khổ đàm phán Hiệp định đã diễn ra tại Isarel vào tháng 8/2022. Cũng trong tháng 8/2022, Việt Nam đã tiếp Đại sứ Na Uy Grete Lochen nhân dịp kết thúc nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam, qua đó, đề nghị Na Uy thúc đẩy tiến độ đàm phán, ký kết Hiệp định VN – EFTA FTA.

Việt Nam cũng đang thực hiện những bước đầu tiên trong việc thỏa thuận, đàm phán với các đối tác mà Việt Nam chưa ký FTA. Tháng 5/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam sang thăm và làm việc tại Washington D.C (Hoa Kỳ), sự kiện này được đánh giá sẽ mở ra trang mới cho thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Vào tháng 5/2022, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn Đầu tư và Thương mại châu Phi (AFIC8) diễn ra tại thủ đô Algiers (An – giê – gi). Tại diễn đàn này, giới thiệu với cộng đồng doanh nghiệp châu Phi những thành tựu của Việt Nam trong thời gian qua, cũng như những thế mạnh và tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam với các nước châu Phi trong thời gian tới. Vào đầu tháng 12 năm 2022, Việt Nam tổ chức diễn đàn thương mại với các đối tác khu vực Á – Âu năm 2022 tại Hà Nội nhằm cung cấp cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thông tin cập nhật về tình hình thị trường, chính sách ngoại thương, các cơ hội giao thương và đầu tư tại khu vực Á – Âu (Eurasia), một trong những thị trường có quan hệ gần gũi với Việt Nam trong quá khứ và có nhiều tiềm năng để tiến tới hình thành một khu vực thương mại tự do với Việt Nam.

Trong chặng đường hội nhập quốc tế, Việt Nam cũng cho thấy sự chủ động và tích cực trong việc cải cách thể chế để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hội nhập và gia nhập các hiệp định thương mại tự do. Tính đến năm 2022, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành hơn 30 văn bản pháp luật để “nội luật hóa” các cam kết trong các FTA đã tham gia. Đối với các cam kết của hiệp định CPTPP, Việt Nam đến nay đã ban hành 20 văn bản pháp luật (03 luật, 06 nghị định, 10 thông tư và 1 quyết định của Thủ tướng Chính phủ). Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về cơ bản là đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định và được các nước thành viên CPTPP ghi nhận và đánh giá cao. Trong đó, việc ban hành, sửa đổi 3 luật, bao gồm: (1) Bộ luật lao động sửa đổi số 45/2019/QH14 ngày 20/11/2019; (2) Luật số 42/2019/QH14 ngày 17 /6 2019 bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ; (3) Luật số 07/2022/QH15 ngày 16/6/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ đã khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc “nội luật hóa” và thực thi các cam kết trong CPTPP. Tương tự, đối việc thực thi các cam kết trong hiệp định EVFTA, Việt Nam cũng đã ban hành 12 văn bản (02 luật, 03 nghị định, 03 quyết định, 04 thông tư). Ngoài ra, sở hữu trí tuệ và bảo vệ lao động quốc tế đang là các lĩnh vực được quan tâm trong bối cảnh đất nước hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, các bộ, ngành liên quan đang xem xét, xây dựng hồ sơ gia nhập các điều ước quốc tế liên quan đến hai lĩnh vực nêu trên và trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.

Nhìn chung, trong năm 2022, dù nền kinh tế thế giới có những biến động do ảnh hưởng từ dịch bệnh, xung đột, lạm phát,… nhưng Việt Nam vẫn cho thấy những bước tiến chủ động, hiệu quả và vững chắc trong quá trình hội nhập quốc tế. Điều này đã cho thấy thực lực của đất nước trong chặng đường hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả. Đồng thời, đây cũng là bước đệm vững chắc và là động lực to lớn để Việt Nam thực hiện khát vọng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Phân tích, đánh giá cơ hội, thách thức của Việt Nam trong hoạt động thương mại và hội nhập quốc tế

Về cơ hội

Thứ nhất, với việc có mạng lưới và mối quan hệ đa dạng với nhiều quốc gia ở các châu lục, khu vực khác nhau, Việt Nam có thể tận dụng sự đa dạng này để tạo thành các lực lượng kinh tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng. Nhờ hội nhập, Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn vốn, thành tựu khoa học và công nghệ để đạt được thành tựu phát triển trong thời gian tới. Chẳng hạn, việc ký kết thành công hiệp định RCEP trong năm 2022 được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam xóa bỏ 90% thuế quan trong vòng 20 năm tới giữa các thành viên, đồng thời tạo dựng một chuỗi cung ứng mới trong khu vực ASEAN mà vai trò của Việt Nam là đặc biệt quan trọng, từ đó dễ dàng tiếp cận với các thị trường tiêu dùng lớn, như:Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Thứ hai, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, chủ nghĩa đa phương tránh phụ thuộc vào một nước trong hoạt động thương mại quốc tế đang trở nên phổ biến. Việt Nam, với mạng lưới và mối quan hệ đa dạng trong chặng đường hội nhập quốc tế, được kỳ vọng sẽ nâng cao khả năng tự chủ, bảo đảm cân bằng giữa sức chống chịu của từng nền kinh tế với thúc đẩy hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế, cũng như giữa nhu cầu phát triển của từng quốc gia với trách nhiệm chung trong các vấn đề toàn cầu. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để Việt Nam phục hồi và ổn định kinh tế vĩ mô sau đại dịch.

Thứ ba, trong khoảng 2 năm trở lại đây, Việt Nam đã và đang chứng tỏ được năng lực quốc gia trong việc đối phó và kiểm soát thành công đại dịch Covid – 19, từ đó khẳng định vị thế và vai trò của một đối tác thương mại đáng tin cậy trong khu vực và toàn cầu. Ngược lại, việc hội nhập đa dạng, đa phương cũng tạo cơ hội để Việt Nam tiếp cận với các công cụ, kinh nghiệm và hợp tác trong tiêm chủng, phòng, chống dịch Covid – 19, từ đó bảo đảm  quá trình phục hồi và kiểm soát đại dịch.

Hơn nữa, với chuỗi FTA cùng mạng lưới đối tác quốc tế đa dạng, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều lựa chọn ưu đãi để tận dụng trong sản xuất, kinh doanh và thương mại. Chẳng hạn, đối với hiệp định EVFTA, các DN trong nước có cơ hội sử dụng các chế độ ưu đãi thuế quan (hiện nay phổ biến là GSP) để xuất khẩu sang thị trường EU. Đồng thời, các điều kiện về quy tắc xuất xứ chặt chẽ trong các FTA thế hệ mới sẽ tạo cơ hội cho việc sản xuất trực tiếp nguyên vật liệu thay thế nhập khẩu, từ đó giảm mức độ phụ thuộc vào các nguyên phụ liệu nhập khẩu dẫn đến tăng tỷ lệ nội địa hóa trong hàng hóa xuất khẩu.

Những thách thức

Một là, nhận thức của một bộ phận tổ chức, DN và cá nhân vẫn còn hạn chế, dẫn đến thờ ơ, thiếu chủ động trong việc tiến hành mở rộng và hội nhập. Hơn nữa, vẫn còn một số địa phương, cơ quan chưa chủ động vào cuộc trong việc xây dựng định hướng, chiến lược tận dụng các FTA cho các doanh nghiệp tại địa phương mình, từ đó dẫn đến việc phát triển không đồng bộ giữa các doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh còn hạn chế.

Hai là, dù việc hội nhập đa phương, đa dạng đã trở thành một trong những đường lối quan trọng của Đảng và Nhà nước, song hiện nay, Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện thể chế để cụ thể hóa đường lối này, cũng như các quy định hiện hành chưa tương thích với các cam kết của các FTA mà Việt Nam tham gia. Các nước trong CTTPP hay trong EVFTA hầu hết đều là các nước phát triển, có nền tảng pháp luật, thể chế hoàn thiện hơn Việt Nam, trong khi Việt Nam những hạn chế về thể chế cũng như các thủ tục phức tạp, chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Ngoài ra, tiến độ của Việt Nam trong quá trình “nội luật hóa” các cam kết FTA còn chậm và thiếu chủ động, có thể dẫn đến những chênh lệch đối với một số cam kết được yêu cầu thực hiện ngay sau khi ký các hiệp định.

Ba là, là một nền kinh tế với độ mở cao, những biến động trên thế giới gần đây đang ngày càng tác động tiêu cực đến tình hình Việt Nam. Năm 2023, kinh tế thế giới được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại; khả năng suy thoái trong ngắn hạn; tình trạng lạm phát cao tiếp tục kéo dài ở nhiều quốc gia; cạnh tranh chiến lược, địa chính trị giữa các nước lớn, xung đột Nga-Ukraine và việc điều chỉnh chính sách của các nước lớn tiềm ẩn rủi ro đến ổn định thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực và các vấn đề địa chính trị khu vực, toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu,… Trong khi đó, mức tăng trưởng bình quân của Việt Nam trong giai đoạn 2020 -2022 chỉ đạt từ 4,28% đến 4,45%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng bình quân của 5 năm trước đó 14. Điều này đồng nghĩa với việc để đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5% trong giai đoạn 2021-2025, mức tăng trưởng của Việt Nam trong các năm tiếp theo phải đạt khoảng 7,5% mỗi năm15. Vì vậy, dù tăng cường hội nhập quốc tế, Việt Nam vẫn phải tính đến các chính sách và phương án phòng vệ khi có những ảnh hưởng tiêu cực. Đây cũng là một yếu tố phức tạp và khó khăn mà Việt Nam cần giải quyết.

Bên cạnh đó, hiện nay các DN Việt Nam vẫn chưa tận dụng hiệu quả các ưu đãi trong các hiệp định thương mại sẵn có. Khảo sát năm 2022 của VCCI cho thấy, trong số các doanh nghiệp từng ít nhất được hưởng ưu đãi thuế quan với 01 lô hàng, có tới trên 34% doanh nghiệp cho biết là nhờ hàng hóa, quy trình sản xuất của họ may mắn đã đáp ứng các quy tắc xuất xứ FTA mà không phải là do chủ động chuyển đổi để đáp ứng các điều kiện về xuất xứ này16. Đồng thời, việc thiếu chủ động trong tìm hiểu, nắm bắt thông tin về FTA luôn là lý do chủ yếu khiến các DN không tận dụng được ưu đãi. Điều này có thể gây nên sự “hoang phí” FTA và hạn chế năng lực cạnh tranh của DN trong nước.

Các hàm ý đổi mới chính sách thương mại và hội nhập quốc tế cho Việt Nam

Nhìn chung, năm 2022 là một năm khởi sắc đối với tình hình kinh tế – xã hội nói chung và hoạt động thương mại, hội nhập quốc tế nói riêng. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới gặp nhiều diễn biến phức tạp, Việt Nam vẫn duy trì vị thế của mình trong khu vực và toàn cầu, gia tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu, cán cân thương mại tiếp tục xuất siêu; đồng thời chủ động, tích cực trong tiến trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu và cơ hội, cũng có những khó khăn, thách thức, nhất là trong bối cảnh thế giới đang diễn ra vô cùng phức tạp. Vì vậy, Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ngành và cơ quan liên quan cần có những chính sách phù hợp nhằm bảo đảm phát triển bền vững đối với thương mại và hội nhập.

Thứ nhất, để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành, các DN trong bối cảnh hội nhập, Nhà nước cần tạo cơ chế và môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng tình hình mới. Bên cạnh đó, cần tạo các cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, thúc đẩy các DN, địa phương đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực.

Thứ hai, cần xây dựng các chính sách thương mại phù hợp với tình hình và thực lực của Việt Nam, nhưng đồng thời bảo đảm tuân thủ các cam kết quốc tế đã, đang và sẽ ký kết. Trong đó, cần tập trung hoàn thành Chương trình thực thi hàng rào kỹ thuật trong thương mại giai đoạn 2011 -2015; xây dựng tiêu chuẩn đối với hàng xuất khẩu; xây dựng lộ trình hạn chế xuất khẩu đối với các sản phẩm thô; ban hành quy định tiêu chuẩn DN được xuất khẩu một số mặt hàng gắn việc tạo ra liên kết lâu dài và ổn định giữa nhà xuất khẩu và nhà sản xuất chế biến… Đồng thời, cần chủ động điều chỉnh cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu và thị trường trong nước theo định hướng, Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng đến năm 2020 (Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ) và các chiến lược phát triển khác đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thứ ba, cần hoàn thiện thể chế kinh tế và pháp luật. Hoàn thiện cơ chế thị trường trên cơ sở đổi mới sở hữu, coi trọng thành phần kinh tế tư nhân; hình thành đồng bộ các loại hình thị trường, bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành chính, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh bạch hơn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về đất đai, đầu tư, thương mại.

Chú thích:
1. ADB nâng dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam lên mức 7,5% trong năm nay. https://dangcongsan.vn, ngày 14/12/2022.
2, 3, 6, 7, 8, 9, 10. Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2022. https://www.gso.gov.vn, ngày 15/12/2022.
4, 11. World Bank. Net trade in goods and services (BoP, current US$) – Vietnam. https://data.worldbank.org, accessed on December 15, 2022.
5. Vượt qua khó khăn trong quá trình phục hồi kinh tế, xuất nhập khẩu Việt Nam tự tin hướng tới mốc kỷ lục 700 tỷ USD cả năm 2022. https://www.gso.gov.vn, ngày 08/12/2022.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021.
13. RCEP: Hiệp định mở ra lợi thế về quy tắc xuất xứ cho hàng hoá của Việt Nam. https://www.gso.gov.vn, ngày 9/12/2022.
14. Tổng cục Thống kê. Việt Nam trước khó khăn, thách thức của kinh tế thế giới. https://www.gso.gov.vn, ngày cập 9/12/2022.
15, 16. Doanh nghiệp chưa có chiến lược tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do. https://www.vcci.com.vn, ngày 19/12/2022.
PGS. TS. Từ Thúy Anh
TS. Phạm Xuân Trường
Nguyễn Dương Việt Anh
Trường Đại học Ngoại thương