Pháp luật quốc tế về quyền tham chính của phụ nữ

(Quanlynhanuoc.vn) – Pháp luật quốc tế về quyền tham chính của phụ nữ gồm hệ thống pháp luật, các ủy ban, diễn đàn mang tính toàn cầu… nhằm bảo đảm cho nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau và được tạo điều kiện, cơ hội thực hiện, phát huy năng lực của mình trong giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Ảnh minh họa (internet).
Cơ sở pháp lý quốc tế về quyền tham chính của phụ nữ

Giới nữ (hay nữ giới): là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người hay toàn bộ nữ giới trong xã hội mang những đặc điểm giới tính một cách tự nhiên được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ thể họ hoàn thiện và chức năng giới tính hoạt động bình thường. Giới nữ (hay nam) dựa trên giới tính vốn là những đặc điểm đồng nhất mà con người có và không thể thay đổi được. Đây là một vị thế xã hội, một chỉ danh pháp lý và một căn cước nhân thân. (Trong ngôn ngữ Việt Nam, có nhiều từ gần nghĩa với “nữ giới”, đều chỉ một nhóm đối tượng thuộc nữ giới nhưng mang tính phân loại cao, như đàn bà, phụ nữ, con gái…). Giới cho thấy một cái nhìn ít nhất là trung lập từ phía người sử dụng.

Thế nhưng, thông qua tiến trình phân định giới với những quy định đi kèm của chúng trong xã hội, việc thể chế hóa trật tự xã hội theo giới tính diễn ra trong hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, như kinh tế, gia đình, Nhà nước, văn hoá, tôn giáo và luật pháp. Sự phân định giới tính sản sinh ra trật tự xã hội theo giới tính (gendered social order). Bất bình đẳng giới (BĐG) cũng được lồng ghép vào cấu trúc của trật tự xã hội theo giới tính, để hai vị thế – giới nữ và giới nam được đối xử khác nhau và có những cơ hội, điều kiện sinh sống khác nhau.

Trước tình hình đó, Hiến chương Liên hiệp quốc (LHQ) năm 1945, ngay trong lời nói đầu khẳng định, bình đẳng về quyền giữa phụ nữ và đàn ông ngay trong lời nói đầu. Trên cơ sở đó, Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (1948) đã xác lập nguyên tắc nền tảng bảo vệ cho quyền bình đẳng nam nữ tại điều 1 và điều 2: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri và phải đối xử với nhau trong tình bác ái. Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên ngôn này, không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như: chủng tộc, màu da, nam – nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác”1.

Đến nay, LHQ đã thông qua các công cụ quốc tế nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa nam và nữ trên quy mô toàn cầu, như: Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984; Tuyên bố và Chương trình hành động Viên năm 1992; Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh năm 1995… Nổi bật là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 (CEDAW) với 3 nguyên tắc cơ bản là: bình đẳng thực tế; không phân biệt đối xử; nghĩa vụ quốc gia. Ủy ban CEDAW đã đưa ra nhiều khuyến nghị chung. Ví dụ, các khuyến nghị chung số 15 – 26 về phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, bình đẳng trong quan hệ hôn nhân và gia đình, bạo lực với phụ nữ và chính trị, phụ nữ trong đời sống công cộng và chính trị, phụ nữ và sức khỏe…2.  

CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên của LHQ đã phê chuẩn Công ước (189 quốc gia cho đến nay) thiết lập các cơ chế tại chỗ để thực hiện đầy đủ các quyền của phụ nữ. Tiếp đó, Hội đồng Bảo an LHQ đã thông qua các Nghị quyết 1325 về Phụ nữ, Hoà Bình và An ninh (năm 2000) và 1820 (năm 2008) mở rộng phạm vi áp dụng của CEDAW. Đây là những công cụ quốc tế quan trọng, nhưng cũng có một sự giao thoa giữa chúng, như: (i) Tăng cường việc phụ nữ tham gia vào việc ra quyết định ở tất cả các cấp; (ii) Xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ vì nó cản trở sự tiến bộ và duy trì địa vị thấp kém của họ; (iii) Bình đẳng giữa hai giới và bảo vệ phụ nữ, trẻ em gái thông qua nguyên tắc pháp quyền; (iv) Yêu cầu các lực lượng và hệ thống an ninh bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái khỏi bạo lực trên cơ sở giới; (v) Nhận thức rõ những trải nghiệm và gánh nặng khác biệt của phụ nữ và trẻ em gái do sự phân biệt đối xử có hệ thống; (vi) Bảo đảm đưa kinh nghiệm, nhu cầu, quan điểm của phụ nữ vào các quyết định chính trị, pháp lý và xã hội đóng vai trò có tính quyết định thành tựu của hòa bình chính đáng và lâu dài.

Cương lĩnh hành động Bắc Kinh năm 1995 tán thành quan điểm “phụ nữ là quyền con người” (H. Clinton), đã khẳng định quyết tâm tiến tới mục tiêu bình đẳng, phát triển và hòa bình cho tất cả phụ nữ ở mọi nơi trên trái đất vì lợi ích của toàn nhân loại. Nhìn chung, nguyên tắc bảo đảm quyền BĐG gồm: (1) Cơ hội bình đẳng cho quyền của nữ giới và nam giới để phát triển, phát huy các khả năng, năng lực cho phát triển và được hưởng kết quả một cách bình đẳng; (2) Không thực hiện sự ngang nhau giữa nữ giới và nam giới theo nguyên tắc: nam giới làm gì thì nữ giới cũng phải làm như vậy và ngược lại; (3) Khắc phục sự khác biệt, nhưng không triệt tiêu những khác biệt tự nhiên giữa 2 giới, hơn nữa còn tôn trọng những khác biệt giới tính3.

Cho đến nay, tất cả các khu vực trên thế giới đều tích cực thực thi các công cụ của LHQ nhằm thúc đẩy BĐG trong thực tế. Tại Đông Nam Á, Hiến chương ASEAN, Tuyên bố về sự tiến bộ của phụ nữ trong khu vực ASEAN năm 1988 và Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ trong khu vực ASEAN năm 2004 là những văn bản pháp lý cơ bản liên quan đến quyền của phụ nữ. Từ năm 1975, Tiểu ban ASEAN về phụ nữ được thành lập và năm 1981 được đổi tên thành Chương trình phụ nữ ASEAN. Năm 2002 cơ quan chuyên ngành đã được tái cơ cấu lại thành Ủy ban phụ nữ ASEAN (ASEAN Committee on Woman) viết tắt là ACW. Trong quá trình hoạt động, ACW đã thiết lập được các quan hệ đối tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế quan trọng hoạt động trong lĩnh vực BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ và loại bỏ mọi hình thức bạo lực, phân biệt đối xử đối với phụ nữ.

Nội dung, bộ máy giám sát và cơ chế bảo đảm quyền tham chính của phụ nữ

Một là, về nội dung.

Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952 quy định: phụ nữ có quyền bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử trên cơ sở bình đẳng với nam giới, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào (Điều 1). Phụ nữ có quyền được bầu vào mọi cơ quan nhà nước do dân cử được thành lập theo quy định của pháp luật quốc gia, trên cơ sở bình đẳng với nam giới, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào (Điều 2). Phụ nữ có quyền làm việc tại các cơ quan nhà nước và thực hiện mọi chức năng công quyền theo quy định của pháp luật, trên cơ sở bình đẳng với nam giới, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào (Điều 3).

Điều 7,8 của Công ước CEDAW quy định: các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong đời sống chính trị và cộng đồng của đất nước và đặc biệt là phải bảo đảm cho phụ nữ, trên cơ sở bình đẳng với nam giới, được thụ hưởng các quyền sau: (a) Tham gia bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý, được quyền ứng cử vào tất cả các cơ quan dân cử; (b) Được tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách của chính phủ, tham gia vào bộ máy và các chức vụ nhà nước ở mọi cấp chính quyền; (c) Tham gia vào các tổ chức xã hội và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời sống công cộng và chính trị của đất nước (Điều 7). Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm cho phụ nữ có cơ hội đại diện cho Chính phủ mình trên diễn đàn quốc tế và tham gia công việc của các tổ chức quốc tế, trên cơ sở bình đẳng với nam giới và không có bất cứ sự phân biệt nào (Điều 8).

Điều 11 CEDAW, Điều 14 Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ trong lao động, việc làm. Điều 10 công ước CEDAW quy định: phụ nữ và nam giới bình đẳng về phương diện văn hóa, xã hội (độ tuổi đi học, đào tạo, bòi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, lựa chọn ngành nghề học tập, đào tạo tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo…)4.

Hai là, về bộ máy giám sát.

Năm 1946, LHQ thành lập Ủy ban về địa vị của phụ nữ, có nhiệm vụ nghiên cứu, soạn thảo các văn kiện quốc tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Hiện có các cơ quan, tổ chức thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ: Uỷ ban về địa vị phụ nữ, Ban về sự tiến bộ của phụ nữ, Quỹ phát triển phụ nữ Liên Hợp quốc (UNIFEM), Cơ quan Liên hợp quốc về BĐG và Trao quyền cho Phụ nữ (UN Women), Viện Nghiên cứu và đào tạo quốc tế vì sự tiến bộ của phụ nữ, Văn phòng Cố vấn đặc biệt cho Tổng thư ký LHQ về các vấn đề giới và sự tiến bộ của phụ nữ… Ngoài ra, còn có mạng lưới liên cơ quan về phụ nữ và BĐG trực thuộc, chịu trách nhiệm chủ yếu về vấn đề phụ nữ.

Cộng đồng quốc tế bảo đảm thực thi quyền của phụ nữ thông qua bộ máy và cơ chế giám sát gồm: Hội đồng Quyền con người, các ủy ban và các nhóm công tác chuyên biệt. Các cơ quan theo dõi việc thực thi là Ủy ban về quyền con người của ICCPR và Ủy ban về quyền kinh tế – xã hội, văn hóa của ICCSCR xem xét giải quyết theo thẩm quyền đối với các khiếu nại cá nhân về những vi phạm bị cáo buộc, đồng thời giải quyết những vấn đề phân biệt đối xử. Ủy ban Phòng chống tra tấn là cơ quan giám sát Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục khác cũng thường xuyên xử lý những vấn đề bạo lực chống lại phụ nữ và trẻ em gái. Các quốc gia tham gia phê chuẩn Công ước phải định kỳ báo cáo gửi tới các cơ quan này trong đó đưa ra những khuyến nghị về những giải pháp cần thiết để thực hiện nghĩa vụ theo quy định.

Ba là, về cơ chế.

Điều 3 Công ước về Xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ quy định: “Các quốc gia thành viên Công ước phải thi hành mọi biện pháp thích hợp, kể cả biện pháp pháp lý…, để bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, nhằm mục đích bảo đảm cho họ có thể thực hiện và được hưởng các quyền con người và tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng nam nữ”. Điều 4 Công ước này khẳng định rằng, ngay cả khi phụ nữ đã được ghi nhận sự bình đẳng về mặt pháp lý, điều đó cũng không đủ để bảo đảm họ sẽ được đối xử một cách bình đẳng trong thực tế. Để bảo đảm quyền của phụ nữ, các quốc gia thành viên được cho phép sử dụng những biện pháp xử lý đặc biệt nhằm bảo đảm quyền đặc thù của phụ nữ.

Như vậy, cộng đồng quốc tế đã vượt qua quan điểm hẹp về bình đẳng theo nghĩa thông thường và thiết lập những mục tiêu của riêng nó là bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về kết quả. Trong Khuyến nghị chung số 5 được thông qua tại Phiên họp lần thứ 7 (1988) của Ủy ban về Xóa bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ nêu rõ rằng: “Các quốc gia thành viên cần ban hành nhiều hơn các biện pháp đặc biệt tạm thời như là những hành động tích cực, sự đối xử ưu đãi hoặc hệ thống các chỉ tiêu để tăng cường việc bảo đảm quyền bình đẳng cho phụ nữ trong các lĩnh vực…”; sử dụng biện pháp đối xử đặc biệt để bảo vệ chức năng làm mẹ là cách thức duy nhất để bảo đảm bình đẳng thực sự cho phụ nữ, luôn luôn là cần thiết và không bị xóa bỏ.

Tựu chung, cơ chế bảo đảm quyền tham chính của phụ nữ là bảo đảm các cách thức, điều kiện, yếu tố cần và đủ cho việc thực hiện các đặc quyền vốn có của phụ nữ (nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích, năng lực…) trong các phương diện sau:

– Cơ chế mang tính nhà nước: Nghị viện, Hội đồng địa phương (Quốc hội, Hội đồng nhân dân), các cơ quan hành pháp (Chính phủ, chính quyền địa phương) và tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát).

– Cơ chế mang tính xã hội: Các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm BĐG trong lĩnh vực chính trị; tham gia xây dựng chính sách, pháp luật; giám sát việc thực hiện pháp luật có liên quan đến BĐG.

– Cơ chế thông qua gia đình và các thiết chế tự quản ở cơ sở: Gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện cho phụ nữ và trẻ em gái nâng cao nhận thức, hiểu biết và tham gia các hoạt động về BĐG; chia sẻ và phân công hợp lý công việc gia đình với người phụ nữ, tạo cơ hội như nhau giữa con trai, con gái trong học tập, lao động và tham gia các hoạt động khác… Các thiết chế tự quản ở cơ sở bao gồm các cộng đồng dân cư của thôn, bản, làng, ấp, dòng họ… Các thiết chế tự quản có trách nhiệm bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ trong quá trình xây dựng hương ước, quy ước, quy chế tự quản; giáo dục, thuyết phục nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên cộng đồng loại bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ và phân biệt đối xử với phụ nữ.

Vận dụng cơ sở pháp lý quốc tế về quyền tham chính của phụ nữ tại Việt Nam

Thứ nhất, nguyên tắc vận dụng cơ sở pháp lý quốc tế về quyền tham chính của phụ nữ trong đường lối, chủ trương, Hiến pháp, luật pháp, chính sách, chương trình phát triển của Đảng và Nhà nước là: các quyền của phụ nữ được thể chế trong Hiến pháp là tối thượng. Còn trong văn bản pháp luật nếu chưa có quy định hoặc quy định chưa phù hợp với pháp luật quốc tế thì bổ sung điều chỉnh cho phù hợp với pháp luật quốc tế.

Thứ hai, cơ sở cho việc vận dụng pháp lý quốc tế về quyền tham chính của phụ nữ gồm: (a) Nhận thức của các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền BĐG; (b) Quản lý của Nhà nước với sự cam kết của các cấp lãnh đạo, quản lý Đảng, Nhà nước; (c) Hệ thống thể chế (Khung chính sách) được xây dựng, tổ chức triển khai, thực hiện trên cơ sở cách tiếp cận giới và thông tin cập nhật về giới (số liệu tách biệt theo giới tính, thống kê giới, thông tin phân tích giới); (d) Nguồn lực; (đ) Môi trường chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa có tính đổi mới và cầu thị.

Thứ ba, các công cụ bảo đảm quyền tham chính của phụ nữ gồm: các ý tưởng, hành động, hành vi của cá nhân và tập thể; các thiết chế, thể chế chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa.

Thứ tư, kết quả vận dụng cơ sở pháp lý quốc tế về quyền tham chính của phụ nữ riêng và quyền BĐG nói chung, trước tiên và cơ bản là nội dung quyền BĐG nói chung và quyền tham chính của phụ nữ nói riêng trong đường lối, chủ trương, Hiến pháp, luật pháp, chính sách, chương trình phát triển. Trong đó, phải kể đến Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 – 2020 bằng Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 của Chính phủ. Phù hợp với pháp luật quốc tế, Chiến lược xác định mục tiêu tổng quát: đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng cần linh hoạt, phù hợp với pháp luật quốc tế, công tác lồng ghép giới nhằm bảo đảm quyền tham chính của phụ nữ  thành một nội hàm không thể tách rời của quá trình thiết kế, thực thi, giám sát, đánh giá đường lối, chủ trương, luật pháp, chính sách, chương trình trong mọi  lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, văn hóa một cách bình đẳng và giảm dần bất bình đẳng với quyền của nam giới theo nguyên tắc: (1) Bảo đảm sự tương đồng và khác biệt giữa nữ giới (phụ nữ) và nam giới; (2) Thu hút sự tham gia bình đẳng và coi trọng sự đóng góp của nữ giới và nam giới; (3) Phân phối lợi ích cho nữ giới và nam giới một cách bính đẳng; (4) Bảo đảm mọi chính sách, chương trình đáp ứng đươc nhu cầu của cả nữ giới và nam giới; (5) Quản lý nhà nước tốt hơn đối với việc thực hiện quyền BĐG, trong đó có quyền tham chính bình đẳng của nữ giới.

Quyền tham chính bình đẳng của nữ giới không chỉ tồn tại trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình, sức khỏe sinh sản, giáo dục trẻ em… Việc tách riêng các lĩnh vực có tính bức xúc này trong quyền tham chính của nữ giới có thể là cần thiết nào đó nhưng có nguy cơ không giải quyết được căn cơ định kiến giới, vấn đề bất BĐG, làm giảm cách tiếp cận hệ thống trong bảo đảm quyền tham chính của nữ giới… Quyền tham chính bình đẳng của nữ giới cần được đưa vào tất cả các lĩnh vực, giai đoạn của đường lối, chủ trương, pháp luật, chính sách, chương trình phát triển.

Việc vận dụng cơ sở pháp lý quốc tế về quyền tham chính của phụ nữ  nói riêng và quyền BĐG nói chung tại Việt Nam được thể chế hóa thành các quyền, như: (1) Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; (2) Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; (3) Có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình; (4) Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; (5) Quyền có nơi ở hợp pháp; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; (6) Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (7) Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình; (8) Quyền bầu cử và ứng cử; (9) Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; (10) Quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (khi đủ mười tám tuổi trở lên);…

Chú thích:
1. Điều 1, Điều 2 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (năm 1948).
2. Khuyến nghị chung từ số 15 – 26 trong Khuyến nghị chung CEDAW, Quỹ phát triển phụ nữ LHQ- UNIFEM, Hà Nội, 2009.
3. Tuyển chọn các khuyến nghị chung CEDAW, Quỹ phát triển phụ nữ LHQ-UNIFEM, Hà Nội, 2009.
4. Điều 10 Công ước CEDAW.
PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuấn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh