Nâng cao ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa cho đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh

(Quanlynhanuoc.vn) – Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân”1 và “thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn”2. Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những phẩm chất chính trị quan trọng của mỗi công dân nói chung và đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh nói riêng. Nhờ có ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa mà đồng bào dân tộc Khmer có nhận thức, niềm tin đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, có ý chí quyết tâm trong chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực, tự giác cao trong việc tham gia thực hiện các phong trào do địa phương phát động; có thái độ chính trị tích cực, góp phần trực tiếp vào công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng quê hương phồn vinh, giàu đẹp.
Đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Ảnh: Duy Quang.
Tình hình thực hiện chính sách trong vùng đồng bào dân tộc Khmer của tỉnh Trà Vinh thời gian qua

Trà Vinh là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có 65 km bờ biển, diện tích tự nhiên là 2.341 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 79,4%. Toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố; 106 xã, phường, thị trấn; 816 ấp, khóm. Dân số toàn tỉnh có trên 1 triệu người với 275.817 hộ dân cư (khu vực thành thị có 41.481 hộ, khu vực nông thôn có 234.336 hộ), với 3 dân tộc chính là Kinh, Khmer, Hoa, trong đó dân tộc Khmer có 329.662 người (89.429 hộ), chiếm 31,53%, dân tộc Hoa chiếm gần 1% và một số ít người Chăm, Ấn; có 59 xã, phường, thị trấn có trên 20% đồng bào dân tộc (ĐBDT) Khmer sinh sống3.

Xuất phát từ thực tiễn đặt ra đối với vùng ĐBDT Khmer ở Nam Bộ nói chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng, Ban Bí thư đã ban hành các chỉ thị riêng, cụ thể: Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 về công tác ở vùng ĐBDT Khmer, Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 về tăng cường công tác ở vùngĐBDT Khmer trong tình hình mới.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển toàn diện vùng ĐBDT thiểu số, ngay sau khi tái lập tỉnh, Tỉnh ủy Trà Vinh đã ban hành các văn bản: Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 13/10/1992 về công tác trong vùng ĐBDT Khmer; Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 09/9/2011 về phát triển toàn diện vùng đồng bào Khmer giai đoạn 2011 – 2015; Kết luận số 01-KL/TU ngày 16/6/2016 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU; Kế hoạch số 81-KH/TU ngày 23/4/2018 thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng ĐBDT Khmer trong tình hình mới; Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 08/10/2021 về tiếp tục phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc Khmer giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030. Quán triệt các nghị quyết, kết luận, kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy cũng như các chỉ thị, chương trình, kế hoạch cụ thể hóa của Ủy ban nhândân tỉnh, các cấp, các ngành trong tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình, dự án trong vùng ĐBDT, tạo được sự chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ đó, đời sống vật chất và tinh thần của ĐBDT Khmer ngày càng nâng lên, diện mạo nông thôn vùng có đông ĐBDT Khmer sinh sống ngày càng thay đổi.

Về ý thức dân chủ của đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh

Ý thức về dân chủ

C.Mác chỉ rõ: “trong chế độ dân chủ, thì chế độ nhà nước, luật pháp, bản thân nhà nước – trong chừng mực nhà nước là một chế độ chính trị nhất định – chỉ là sự tự quy định của nhân dân và là nội dung xác định của Nhân dân”4. V.I. Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN): “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần5. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải “dân chủ” một cách hết sức giản dị, cô đọng và dễ hiểu, theo đó “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ” 6.

Từ đó có thể thấy, dân chủ XHCN là nền dân chủ mà ở đó dân chủ với nghĩa toàn bộ quyền lực thuộc về Nhân dân. Điều đó trở thành nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển xã hội, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy tính tích cực sáng tạo của toàn thể Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN thông qua Nhà nước XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ, để xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ thực sự của Nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, bởi dân chủ XHCN là một trong những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi. Không xây dựng được nền dân chủ XHCN sẽ không có chủ nghĩa xã hội. Điều này đòi hỏi phải có: “… một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”7. Hệ thống chính trị đó phải: “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người”8... Đây thực sự là một xã hội: “… mà trong đó, sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”9.

Ý thức dân chủ là một hình thái đặc thù của ý thức xã hội phản ánh các mặt dân chủ trong đời sống xã hội của một xã hội nhất định; phản ánh khát vọng quyền làm chủ của Nhân dân, quyền lực thuộc về Nhân dân; phản ánh trình độ nhận thức, sự hiểu biết về dân chủ cùng thái độ, niềm tin và ý chí của Nhân dân thực thi nền dân chủ đó.

Xét về cấu trúc ý thức dân chủ XHCN, gồm: nhận thức; niềm tin; thái độ và ý chí quyết tâm của chủ thể. Nhận thức, niềm tin, thái độ và ý chí dân chủ XHCN hoà quyện, gắn bó với nhau, tác động lẫn nhau trong ý thức dân chủ XHCN. Việc nghiên cứu ý thức dân chủ XHCN đòi hỏi phải làm rõ các nội dung cơ bản này. Xác định những nội dung cơ bản đó chỉ có tính chất tương đối, bởi tính chất, cấu trúc và nội dung của ý thức dân chủ XHCN rất rộng và phức tạp. Một mặt, nó được kết cấu như ý thức nói chung (có cả chiều ngang lẫn chiều dọc); mặt khác, lại được kết cấu theo các dạng của ý thức xã hội (có cả ý thức thông thường lẫn ý thức lý luận). Cả hai dạng cấu trúc đó lại đồng thời phản ánh mặt tư tưởng và tâm lý của ý thức dân chủ XHCN. Do đó, khi phân tích theo những nội dung cơ bản (nhận thức, niềm tin, thái độ, ý chí) vừa phải luôn xem xét chúng trong các mối quan hệ với các nội dung, các yếu tố cấu thành ý thức dân chủ XHCN như kết cấu cơ bản của ý thức và ý thức xã hội, vừa phải đặt trong các mối quan hệ với chế độ dân chủ XHCN. Ý thức dân chủ XHCN thể hiện thông qua hành vi, hành động thực hiện dân chủ, trong xây dựng, bảo vệ chế độ dân chủ XHCN.

Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay

Từ phân tích vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ XHCN và đặc điểm của ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh, có thể thấy:

Ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay là một hình thái ý thức đặc thù của ý thức dân chủ XHCN, phản ánh trình độ nhận thức, thái độ, tình cảm, niềm tin và hành động thực hành dân chủ đối với thiết chế dân chủ, chế độ dân chủ XHCN, quyền lợi và nghĩa vụ công dân trước pháp luật của Nhà nước; góp phần vào công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát triển kinh tế – xã hội ở tỉnh Trà Vinh; góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer là một biểu hiện của ý thức dân chủ XHCN nói chung, thể hiện ở một đối tượng cụ thể là ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Ý thức dân chủ XHCN nói chung, ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer nói riêng. Khi xem xét ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer cần phải xét đến các yếu tố quyết định, chi phối, tác động và ảnh hưởng đến nó, trước hết là các loại ý thức nói trên.

Ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer còn là một bộ phận của ý thức xã hội XHCN, chịu sự tác động nhiều mặt bởi các hình thái ý thức xã hội XHCN khác, mà thường xuyên, trực tiếp nhất là ý thức chính trị, ý thức pháp quyền… Vì vậy, việc nghiên cứu ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer đồng thời phải nghiên cứu đồng bộ các loại ý thức nêu trên.

Một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức dân chủ XHCN cho ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay

Một là, nâng cao nhận thức toàn diện về ý thức dân chủ XHCN cho ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, chỉ đạo xuyên suốt cho quá trình nâng cao ý thức dân chủ XHCN cho ĐBDT Khmer. Nhận thức đúng là điều kiện quan trọng để hoạt động thực tiễn đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao nhất. Nhận thức chỉ đạo, định hướng hành động, có nhận thức đúng mới có trách nhiệm cao, tích cực tìm tòi những hình thức, biện pháp linh hoạt, sáng tạo bảo đảm cho việc nâng cao ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer. Muốn nâng cao ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer, vai trò chủ thể ĐBDT Khmer phải có kiến thức, nhận thức, có năng lực làm chủ như Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng khẳng định: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phẩn của mình, phải có kiến thức để có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà…”10.

Để thực hiện tốt các nội dung giáo dục trên, cần tập trung thực hiện một số biện pháp chủ yếu như: phát huy vai trò của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và đội ngũ cán bộ trong tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng nhận thức về dân chủ XHCN; nâng cao nhận thức về dân chủ XHCN cho sư sãi, người có ý tín trong ĐBDT Khmer; đa dạng hóa, hình thức, phương pháp giáo dục về dân chủ XHCN cho ĐBDT Khmer. Tuyên truyền, phổ biến qua hệ thống phát thanh – truyền hình ở tỉnh và khu vực, qua hệ thống truyền thanh (loa, đài) ở địa phương, cơ sở bằng tiếng phổ thông và tiếng ĐBDT Khmer, tổ chức các đội thông tin tuyên truyền lưu động đến với các vùng dân tộc Khmer đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, kết hợp tuyên truyền chính sách với hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông qua hoạt động văn hóa, văn nghệ để tuyên truyền chính sách; chú trọng các hình thức tuyên truyền qua các tổ nhóm, câu lạc bộ của các đoàn thể ….

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, thể chế, chính sách trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở hiện nay.

Đây là giải pháp quan trọng tạo ra những điều kiện thuận lợi để ĐBDT Khmer tham gia vào các hoạt động dân chủ; phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Góp phần nâng cao ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay, cần thực hiện tốt một số nội dung sau: (1) Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, nâng cao chất lượng hoạt động của cấp ủy đảng, chính quyền ở địa phương; phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội…; (2) Cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ. Thực hiện có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; (3) Thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ”; (4) Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của Nhân dân; đồng thời, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần “thượng tôn pháp luật”, sự gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương, thực hành dân chủ XHCN.

Ba là, quan tâm, chăm lo đời sống vật chất và đời sống tinh thần và xây dựng tốt môi trường dân chủ cho ĐBDT Khmer.

Để nâng cao ý thức dân chủ XHCN cho ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh cần thực hiện tốt chính sách phát triển văn hóa, kinh tế – xã hội…, với mục tiêu thiết thực là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho ĐBDT Khmer. Đây là mục tiêu quan trọng, xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và trở thành “chìa khóa vạn năng” để các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội giải quyết tốt những vấn đề do thực tiễn công tác đặt ra. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội ở địa phương phải thường xuyên quan tâm việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch liên quan trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của ĐBDT Khmer. Việc ban hành những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo; nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, chính sách dân tộc, tôn giáo đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của ĐBDT Khmer hiện nay là tiền đề nâng cao ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay.

Khi xây dựng chính sách đối với vùng ĐBDT, bên cạnh tiêu chí và điều kiện chung, cần chú ý đến tiêu chí, điều kiện mang tính đặc thù của ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Cần tập trung đầu tư hạ tầng đồng bộ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp; đặc biệt, giải quyết những vấn đề cơ bản về chính sách xóa đói, giảm nghèo, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, nâng cao thu nhập cải thiện đời sống của ĐBDT Khmer, bảo đảm định canh, định cư và giảm nghèo bền vững.

Phát triển văn hóa – xã hội, nâng cao dân trí gắn với giữ gìn bản sắc văn hóa tốt đẹp của ĐBDT Khmer. ĐBDT Khmer tỉnh Trà Vinh có các đặc điểm sinh sống, lao động, văn hóa và tôn giáo, phong tục tập quán, tiếng nói, chữ viết và văn hóa ẩm thực riêng.

Bốn là, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước cho ĐBDT Khmer.

Các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, quan tâm xây dựng lực lượng là người có uy tín làm nòng cốt ở cơ sở thông qua các phong trào thi đua yêu nước, ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc đã tạo được sức mạnh tổng hợp, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng tích cực.

Trong thời gian tới, cần tập trung củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; làm tốt công tác phát triển đảng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong ĐBDT Khmer. Ngoài ra, việc đào tạo nguồn nhân lực cần phải bám sát điều kiện thực tế, trình độ dân trí, nhu cầu lao động của thị trường để nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết việc làm cho ĐBDT Khmer. Ưu tiên và hỗ trợ triển khai chương trình giáo dục song ngữ ở bậc tiểu học, trường dân tộc nội trú vùng đông ĐBDT Khmer sinh sống là một trong những chính sách ưu đãi trực tiếp mà nền giáo dục dành cho người dân tộc thiểu số. Đào tạo ngôn ngữ, văn hóa, văn học, phong tục tập quán để con em dân tộc Khmer có ý thức tự giác, trân trọng và giữ gìn cũng như phát huy văn hóa của dân tộc mình.

Vấn đề tôn giáo ĐBDT Khmer trong tình hình mới, cần quan tâm công tác đào tạo bồi dưỡng và phát triển đội ngũ chức sắc; phát huy vai trò của Hội đoàn kết sư sãi yêu nước, ban quản lý chùa và người có uy tín… Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, ban, ngành, đoàn thể luôn quan tâm và tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động theo đúng quy định pháp luật; bảo tồn các chùa Phật giáo Nam tông Khmer là di tích lịch sử cấp quốc gia, cấp tỉnh, cơ sở tôn giáo có công với cách mạng để trùng tu, xây dựng chánh điện; hỗ trợ kinh phí hoạt động cho hội tự nguyện, đặc thù của các tổ chức tôn giáo;  Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước các cấp hoạt động đúng điều lệ, đúng tôn chỉ, mục đích, tích cực tham gia cùng chính quyền trong vận động sư sãi, phật tử tham gia phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững tình hình an ninh, trật tự trong cộng đồng. Phát huy tốt việc xây dựng chùa vừa là nơi tu học hành đạo, vừa là trung tâm tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội theo phong tục, tập quán, là nơi phổ biến các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước…

Năm là, phát huy tính tích cực, tự giác và năng lực thực hành dân chủ của ĐBDT Khmer trong việc thực hành dân chủ XHCN trên các lĩnh vực đời sống xã hội.

Phát huy tính cực, tự giác và năng lực thực hành dân chủ của ĐBDT Khmer trong việc thực hành dân chủ XHCN trên các lĩnh vực đời sống xã hội là hoạt động thực tiễn dân chủ XHCN, là giải pháp cơ bản, có tính quyết định đến kết quả nâng cao ý thức dân chủ XHCN của ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay. Để thực hiện được giải pháp này cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau: (1) Nâng cao dân trí và ý thức pháp luật cho ĐBDT Khmer; (2) Tăng cường vai trò tích cực, chủ động của ĐBDT Khmer trong mối quan hệ với Đảng và Nhà nước; (3) Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân; (4) Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm tạo lập kỹ năng thực hiện quyền của người dân đi đôi với việc phát huy hơn nữa các hình thức thực hành dân chủ; (5) Xây dựng và vận hành các hình thức tổ chức cụ thể để nhân dân thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở; (6) Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch trong cộng đồng ĐBDT Khmer ở tỉnh Trà Vinh.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập. Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 457.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 325.
3. Báo cáo Chính trị Đại hội các dân tộc thiểu số tỉnh Trà Vinh lần thứ III, năm 2019.
4. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 350.
5. V.I. Lênin, Toàn tập. Tập 37. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr. 312.
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 83.
7, 8, 9. Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2022, tr. 21, 105, 21 – 22.
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 36.
Đại úy Thạch Thanh Nhã
Thượng úy Trần Văn Tuấn
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng