Phát triển văn hoá ứng xử của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển văn hoá ứng xử của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là quá trình thường xuyên, liên tục, lâu dài, bền bỉ, luôn có sự kế thừa và phát triển, có khuynh hướng đi lên để từng bước hoàn thiện về mọi mặt đáp ứng với thực tiễn đã, đang và sẽ đặt ra ngày càng cao hiện nay của nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu ở các đơn vị trong toàn quân.
Hoạt động giáo dục chính trị ở Trung đoàn 141 (Sư đoàn 312, Quân đoàn 1). Ảnh: qdnd.vn.
Đặt vấn đề

Văn hoá nói chung và văn hoá ứng xử của giảng viên trẻ (GVT) ở các học viện, trường sĩ quan quân đội (HV, TSQQĐ) nói riêng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng tạo nên uy tín, thương hiệu của GVT đối với hoạt động giảng dạy trong truyền thụ kiến thức cho người học, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các HV, TSQQĐ hiện nay. Đồng thời, lan toả những hành động, việc làm của GVT cho sự nghiệp “trồng người” vì sự lớn mạnh, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao của quan điểm, mục tiêu xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh vào năm 2025 của Đảng đã xác định. Muốn vậy, đào tạo, bồi dưỡng toàn diện về mọi mặt, trong đó phát triển văn hoá ứng xử của GVT ở các HV, TSQQĐ là biện pháp quan trọng tạo ra lớp giảng viên nguồn, kế cận tiếp tục sứ mệnh lịch sử giảng dạy cho các đối tượng học viên theo nội dung, chương trình đã xác định.

Vai trò phát triển văn hoá ứng xử của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội

Phát triển văn hoá ứng xử của GVT ở các HV, TSQQĐ là quá trình thẩm thấu, lan toả những tri thức, vốn sống, kinh nghiệm đã được học ở các môi trường khác nhau ra bên ngoài thông qua những cách thức, biện pháp giao tiếp, giải quyết công việc với cấp trên, với đồng nghiệp, với mọi người xung quanh, được nhiều người thừa nhận, đánh giá cao, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Phát triển văn hoá ứng xử của GVT ở các HV, TSQQĐ cũng là sự nỗ lực cố gắng bên trong và những đòi hỏi, yêu cầu đặt ra ngày càng cao đối với công tác cán bộ của Đảng trong quân đội hiện nay, đặc biệt là đối với GVT có nhiều cơ hội, điều kiện phát triển năng lực, nhưng nếu không chú trọng đến rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống sẽ rất khó tạo được niềm tin với cấp trên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói; “Văn hoá soi đường cho quốc dân đi, phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”1. Điều đó có nghĩa là, văn hoá phải được soi chiếu vào trong mỗi suy nghĩ, hành động, việc làm của con người, có giá trị tích cực đối với sự phát triển của xã hội. Đối với GVT ở các HV, TSQQĐ có tuổi quân, tuổi đời chưa nhiều, do đó phát triển văn hoá ứng xử sẽ là “điểm tựa” vững chắc để GVT nhận được tình cảm, sự quý mến, quý trọng của cấp trên, đồng nghiệp, người học, từ đó, góp phần hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của người GVT “vừa hồng”, “vừa chuyên”; phát triển văn hoá ứng xử của GVT góp phần thúc đẩy mỗi GVT không ngừng nỗ lực phấu đấu hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; là những chất “xúc tác” để liên kết, xây dựng nội bộ đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động, tạo bầu không khí thi đua sôi nổi, phấn khởi, giúp mỗi người vượt qua khó khăn, thử thách đạt được mục đích, yêu cầu đề ra; đấu tranh loại bỏ yếu tố phi văn hoá, phản văn hoá, ứng xử kém; từng bước khắc phục những chênh lệch, sự khác biệt về văn hoá ứng xử giữa GVT với GVT, giữa GVT với người học, giữa GVT với các mối quan hệ xã hội.

Trong môi trường văn hoá quân sự, GVT ở các HV, TSQQĐ tập trung vào giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, yêu thương, tôn trọng, giúp đỡ nhau; có lối sống chân thành, giản dị, giàu lòng nhân ái, vị tha, sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, không nề hà, so sánh thiệt hơn, luôn có thái độ sống tích cực, biết sống, biết điều chỉnh hành vi, thái độ phù hợp với môi trường công tác và môi trường sống…

Trong giai đoạn hiện nay, phát triển văn hoá ứng xử của GVT ở các HV, TSQQĐ chi phối, ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên ngoài, đó là Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chuyển đổi số trong các lĩnh vực, ngành nghề, các trang mạng xã hội nở rộ, tác động của mặt trái cơ chế thị trường, sự tiêm nhiễm của văn hoá xấu độc do các thế lực thù địch thông tin, tuyên truyền… Vì thế, phát triển văn hoá ứng xử của GVT ở các HV, TSQQĐ phải luôn đặt trong mối quan hệ tổng thể với xã hội, điều kiện kinh tế để tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá ở bên ngoài làm giàu thêm văn hoá vốn có của bản thân, phục vụ hữu ích cho sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình.

Những ưu điểm, hạn chế phát triển văn hoá ứng xử của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội thời gian qua

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Thường vụ Đảng uỷ các HV, TSQQĐ, hướng dẫn của cơ quan chính trị, phát triển văn hoá ứng xử của GVT đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đa phần GVT có động cơ, mục đích phấn đấu vươn lên trong học tập, rèn luyện, gắn bó lâu dài với quân đội; cấp uỷ, chỉ huy khoa thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho GVT về tầm quan trọng của văn hoá ứng xử đối với GVT, có nhiều đổi mới về nội dung, hình thức, biện pháp phát triển văn hoá ứng xử cho GVT, như tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để GVT phát huy tài năng, sở trường, thế mạnh của mình cho GVT, đưa GVT vào tình huống dạy học, phân công, giao nhiệm vụ theo chuyên môn; phát động phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt”, quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của GVT, nhất là GVT có hoàn cảnh gia đình khó khăn, được lãnh đạo, chỉ huy khoa nắm bắt kịp thời để động viên, khích lệ và có những thăm hỏi kịp thời về hậu phương gia đình; đưa GVT có ý chí phấn đấu vươn lên, có tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ vào nguồn phát triển, cử đi học, biểu dương, khen thưởng đối với GVT có thành tích tốt trong giảng dạy, rèn luyện, tham gia vào các hội thi, hội thao đem thành tích về cho đơn vị… Thông qua những hoạt động đó, đã góp phần phát triển văn hoá ứng xử của GVT đối với các nhiệm vụ của đơn vị, xây dựng nên thương hiệu, uy tín cho khoa đối với nhiệm vụ giảng dạy cho người học.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, phát triển văn hoá ứng xử của GVT ở các HV, TSQQĐ còn một số hạn chế. Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng và GVT về sự cần thiết phát triển văn hoá ứng xử chưa sâu sắc, đầy đủ; một số GVT ít chia sẻ kinh nghiệm, công việc với giảng viên khác, hoạt động giao lưu, thông tin chủ yếu về nhiệm vụ giảng dạy ở trên lớp; mỗi GVT đều lo lắng, quan tâm đến gia đình và các mối quan hệ xã hội khác, việc hiểu nhau, thông cảm giữa GVT với GVT rất ít, thường xuyên ra vào những dịp lễ, tết, liên hoan chung do khoa tổ chức. Vì thế, văn hoá ứng xử chưa phát triển mạnh mẽ sâu rộng trong toàn đơn vị, mới chỉ dừng lại ở những mối quan hệ mang tính chất trước mắt, chưa có tính ổn định, bền vững.

Thời gian tới, yêu cầu, nhiệm vụ giảng dạy đặt ra ngày càng cao, đòi hỏi GVT không những có kiến thức toàn diện, phẩm chất đạo đức, lối sống, mà còn phải có văn hoá ứng xử văn minh, hiện đại để góp phần xây dựng hệ giá trị văn hoá con người Việt Nam thời kỳ mới, đó là con người cao về trí tuệ, dồi dào về sức khoẻ, năng động, hiện đại với thời cuộc, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường, thịnh vượng; hơn nữa, chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị đặt ra cho GVT luôn tự làm mới mình để đáp ứng với đòi hỏi ngày càng cao của mục tiêu, chương trình, giáo dục, đào tạo hiện nay.

Một số giải pháp phát triển văn hoá ứng xử của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi giảng viên trẻ về tầm quan trọng phát triển văn hoá ứng xử

Nhận thức là cơ sở của hành động, nhận thức đúng, hành động đúng, ngược lại, nếu nhận thức không đúng dẫn đến hành động sai. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác, vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc”2. Theo đó, lãnh đạo, chỉ huy khoa thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho GVT nắm chắc, hiểu rõ những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Lan toả những giá trị văn hoá cao đẹp của dân tộc vào mỗi suy nghĩ, hành động, việc làm của GVT đối với các nhiệm vụ được giao; hình thành lối sống văn hoá lành mạnh, yêu thương, tôn trọng nhau, thúc đẩy quá trình nỗ lực phấn đấu vươn lên không ngừng trong công việc, cuộc sống vì nhiệm vụ chung của đơn vị; cấp uỷ, lãnh đạo, chỉ huy khoa phải khơi dậy ý thức, trách nhiệm cao đối với thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của GVT; thường xuyên đổi mới tư duy nhận thức trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hoá ứng xử của chỉ huy khoa đối với phát triển văn hoá ứng xử của GVT, khơi dậy ý chí, khát vọng phấn đấu không ngừng, tạo điều kiện về mọi mặt để GVT phát huy tính năng động, chủ quan, sáng tạo của mình.

Hai là, xây dựng môi trường văn hoá sư phạm trong sáng, lành mạnh để phát triển văn hoá ứng xử của giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.

Đó là hệ thống những mối quan hệ văn hoá trong sáng, lành mạnh, giản dị vì sự tiến bộ, trưởng thành của con người, vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm cho cá nhân mỗi người được phát triển tốt nhất về mọi mặt, trở thành những nhà giáo ưu tú, cốt cán của Đảng trong quân đội.

Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Khi chúng ta đã biết được quy luật đó, quy luật tác độngkhông lệ thuộc vào ý chí và ý thức của chúng ta, thì chúng ta trở thành người chủ của giới tự nhiên”3. Vì vậy, mỗi chủ thể cần chấp hành nghiêm và thực hiện nghiêm túc những quan điểm, đường lối của Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ trì các cấp; đẩy mạnh thực hiện việc Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”; các phong trào thi đua quyết thắng trong quân đội; thường xuyên quan tâm, chăm lo đến đời sống của giảng viên nói chung và GVT nói riêng; đánh giá đúng năng lực, sở trường, thế mạnh của GVT, sắp xếp, bổ nhiệm đúng vị trí, tạo động lực, niềm tin phấn đấu vươn lên trong công tác của mỗi GVT; kiên quyết đấu tranh, loại bỏ hiện tượng kèn cựa, đố kỵ, gen gét, lợi ích nhóm trong đơn vị; phát huy vai trò của GVT tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bác bỏ luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch, phản động, xây dựng môi trường văn hoá trong sáng, lành mạnh làm “bệ phóng” cho sự phát triển của toàn đơn vị.

Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động của giảng viên trẻ trong phát triển văn hoá ứng xử đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội hiện nay.

Nhân tố chủ quan có vai trò quan trọng đối với phát triển văn hoá ứng xử của GVT ở các HV, TSQQĐ hiện nay. Xét đến cùng mọi hành động, việc làm của con người đều bị chi phối, ảnh hưởng bởi điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, song nhân tố cơ bản, quyết định vẫn là chủ quan của mỗi người. Phát triển văn hoá ứng xử của GVT cũng nằm trong quy luật đó, vì vậy, trong quá trình tham gia vào hoạt động thực tiễn văn hoá ứng xử sẽ bộc lộ và được định hình rõ nét nhất. Chủ thể nào tham gia tích cực, chủ động vào quan hệ xã hội thì văn hoá ứng xử càng được phát triển, ngược lại, chủ thể nào ít tham gia vào hoạt động xã hội, đóng cửa, cài then, bó hẹp ở trong phạm vi giới hạn nhất định, văn hoá ứng xử ít được bộc lộ, thậm trí lạc hậu, bảo thủ.

GVT cần phát huy tính năng động, sáng tạo của mình, tự mình khơi dậy niềm đam mê trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đặt ra yêu cầu cao trong rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, khép mình vào đơn vị; học hỏi, tiếp thu có chọn lọc những nét đẹp văn hoá ở trong và ngoài đơn vị, đồng thời, phát triển nâng lên tầm cao mới thông qua kết quả hoàn thành nhiệm vụ, thông qua sự nhận xét, đánh giá, phân loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên hàng năm; tự mình nghiên cứu, xem xét các mối quan hệ xã hội điều chỉnh cho phù hợp, hiệu quả, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh hiện nay; xây dựng lối sống thật giản dị, trong sạch, có bản lĩnh vững vàng không vụ lợi, mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản, vượt qua khó khăn, thử thách, vững tin vào tương lai, vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định với con đường đã chọn; có ý thức chính trị cao trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; tích cực, chủ động, tự giác tu dưỡng rèn luyện về đạo đức, lối sống không để ai phải nhắc nhở, chấn chỉnh về những suy nghĩ, hành động, việc làm không đáng có trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày như lời nói, chào, hỏi cấp trên, đồng nghiệp, thăm, hỏi động viên những đồng chí có hoàn cảnh gia đình khó khăn… Có như vậy, mới bảo đảm cho văn hoá ứng xử của GVT đi vào chiều sâu, giúp ích rất lớn trong công việc, cuộc sống, trở thành giá trị bền vững đối với sự nghiệp “trồng người” trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Kết luận

Phát triển văn hoá ứng xử của GVT ở các HV, TSQQĐ là sự thẩm thấu, lan toả và truyền đi giá trị văn hoá đạo đức, lối sống tốt đẹp của dân tộc đến các đơn vị thông qua đội ngũ cán bộ các cáp đã được đào tạo ở các HV, TSQQĐ; với chức trách, nhiệm vụ được giao đội ngũ cán bộ đó sẽ truyền đến hạ sĩ quan, binh sĩ lòng yêu nước, tinh thần sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; yêu cầu, nhiệm vụ ở mỗi đơn vị hiện nay đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đặc biệt là nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng, to đẹp, sánh vai cường quốc năm châu thế giới.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Về công tác văn hóa văn nghệ. H. NXB Sự thật, 1971, tr.72.
2. Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, 2000, tr. 466.
3. Mác – Ăngghen.Toàn tập, Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, 1995, tr.228 – 229.
ThS. Vũ Hoàng Sơn
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng