Đánh giá thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Qua phân tích thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị (CQĐT) tại TP. Hồ Chí Minh có thể thấy rằng, Thành phố là một trong những địa phương đầu tiên thực hiện xây dựng CQĐT bước đầu đạt được một số kết quả. Song, khó khăn, vướng mắc liên quan đến biên chế hành chính công chức cấp huyện trở lên; biên chế công chức, số lượng người làm việc không chuyên trách ở phường; các quy định liên quan đến phân cấp, ủy quyền là những căn cứ đề xuất giải pháp cần hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT thành phố trực thuộc trung ương trong thời gian tới.
Ảnh minh hoạ: ttbctphcm.gov.vn.
Một số kết quả đạt được

Thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động CQĐT tại TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện đúng với Nghị quyết số 131/2020/QH14, Nghị định số 33/2021/NĐ-CP của Chính phủ cùng với những quy định tại Luật CQĐP năm 2015, bảo đảm tiến độ các yêu cầu đặt ra, việc chuyển tiếp thực hiện nhiệm vụ giữa hai giai đoạn.

Thứ nhất, công tác quán triệt, tuyên truyền và tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 131/2020/QH14 từng bước đi vào chiều sâu; việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, đơn vị khi thực hiện tổ chức CQĐT được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc. Tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tính minh bạch trong quản lý của chính quyền Thành phố được tăng cường. Quyền làm chủ của Nhân dân được bảo đảm và phát huy; huy động được ngày càng nhiều nguồn lực cho sự phát triển bền vững của Thành phố.

Thứ hai, thành phố đã hoàn thành việc sắp xếp, bàn giao, ổn định tổ chức bộ máy, nhân sự, cơ sở vật chất của các tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội, các cơ quan thuộc ngành dọc của Trung ương đóng trên địa bàn tại các đơn vị hành chính thuộc diện sắp xếp; tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026; đồng thời, triển khai thực hiện các hướng dẫn của sở, ngành trong việc thực hiện thủ tục chuyển đổi các loại giấy tờ có liên quan đến đời sống, an sinh xã hội, kinh doanh cho cá nhân và tổ chức khi thay đổi địa giới đơn vị hành chính; các cơ quan chức năng của TP. Hồ Chí Minh và Thành phố Thủ Đức tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy sau bầu cử; nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để chính quyền Thành phố Thủ Đức thật sự đạt được hiệu lực, hiệu quả hoạt động cao nhất.

Thứ ba, thực hiện pháp luật hiện hành về phân cấp, ủy quyền cho chính quyền đô thị TP. Hồ Chí Minh đã tạo ra cơ chế phân cấp, ủy quyền, chủ động thực hiện các công việc mang tính nội bộ của TP. Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn thời gian qua. Ví dụ, TP. Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 4712/QĐ-UBND ngày 20/10/2018 về ủy quyền cho các sở, ngành, UBND các quận, huyện thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của UBND TP. Hồ Chí Minh.

Chính quyền TP. Hồ Chí Minh có quyết định phù hợp, gần gũi, sâu sát với người dân nhưng đồng thời phải trách nhiệm hơn với các quyết định của mình. Đặc biệt, Nghị quyết số 54, Nghị quyết số 131 và Nghị quyết số 1111 tạo cơ chế đặc thù để TP. Hồ Chí Minh phát triển thành đô thị đặc biệt, có tổ chức chính quyền đô thị và thành phố thuộc TP. Hồ Chí Minh đầu tiên của cả nước. Điều này giúp TP. Hồ Chí Minh phát huy được nguồn lực về con người, đất đai, tài chính và khả năng sáng tạo, chủ động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức TP. Hồ Chí Minh.

Thứ tư, hoạt động của CQĐT gắn với những đặc điểm đặc thù của TP. Hồ Chí Minh bước đầu đã góp phần tạo ra những thay đổi tích cực về kinh tế – xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển của thành phố, xứng đáng với vị trí đầu tàu. Mô hình hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố, Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố đã tiếp tục được đổi mới theo hướng cải tiến, nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri, chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp, tăng cường công tác giám sát theo chuyên đề, được Nhân dân đồng thuận, hưởng ứng. Hoạt động của Uỷ ban nhân dân (UBND) được đổi mới theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, hoạt động công khai, minh bạch đã góp phần quan trọng trong việc cắt giảm các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tiếp cận các dịch vụ công.

Điểm khác biệt so với các CQĐT, như: Hà Nội, Đà Nẵng là TP. Hồ Chí Minh đã xây dựng mô hình Thành phố Thủ Đức trong TP. Hồ Chí Minh theo mô hình chính quyền một cấp, không tổ chức HĐND quận và phường. Việc xây dựng mô hình CQĐT thành phố trong thành phố bước đầu đã tinh giản được các đầu mối, tạo ra sự tinh gọn trong tổ chức và hoạt động, gắn với các đặc thù của quản lý nhà nước ở đô thị.

Thứ năm, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, trình độ chuyên môn, kiến thức luật pháp cho đội ngũ cán bộ, công chức được tăng cường; công tác thanh tra công vụ, phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực; những vụ án nghiêm trọng được phát hiện, xử lý nghiêm minh; công tác cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh đã góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội của TP. Hồ Chí Minh. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu trong các cơ quan hành chính các cấp đã được hạn chế, người dân dễ dàng hơn khi tiếp cận các dịch vụ công thông qua cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” với phương châm công khai, minh bạch, dân chủ.

Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế

Thứ nhất, công tác xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật về tổ chức và pháp luật về CQĐT tại TP. Hồ Chí Minh còn chậm, chưa khả thi. Thực tế, trong hoạt động rà soát, kiện toàn tiến tới tinh gọn và nâng cao hiệu quả hoạt động của CQĐT theo tinh thần của Nghị quyết số 131, nhiều địa phương trên địa bàn thành phố vẫn còn chậm trong công tác chỉ đạo việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực thi hệ thống chính sách, pháp luật về tổ chức và hoạt động CQĐT; từ đó dẫn tới quá trình thực hiện pháp luật thiếu khả thi. Theo đó, các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan, tổ chức chưa rõ ràng, cụ thể, còn tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn. Bên cạnh đó, việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa thực sự hợp lý, thiếu đồng bộ.

Hệ thống thể chế chưa hoàn thiện vì lần đầu có CQĐT và chính quyền Thành phố Thủ Đức, nhưng chưa có nghị định quy định riêng biệt về thẩm quyền, chức năng của Thành phố Thủ Đức, các quy định của Luật Tổ chức CQĐP, Nghị quyết số 131 còn chung chung… Do vậy, khi triển khai thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; Chính phủ và các bộ, ngành chưa kịp thời có các văn bản hướng dẫn, chưa có sự chỉ đạo thống nhất để triển khai có hiệu quả.

Thứ hai, việc thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT là vấn đề mới, chưa có tiền lệ nên việc triển khai các nội dung phân cấp, ủy quyền phải thực hiện thận trọng, nghiên cứu kỹ, đảm bảo quy trình và thẩm quyền. Do vậy, quá trình triển khai mất nhiều thời gian, công sức, chưa bảo đảm đúng tiến độ công việc, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của người dân TP. Hồ Chí Minh khi có những kỳ vọng phát triển vượt bậc của tổ chức chính quyền đô thị, Thành phố Thủ Đức trong TP. Hồ Chí Minh.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 131, UBND quận làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2013 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019 quy định thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật đều thuộc thẩm quyền tập thể UBND. Do vậy, thực tế các quận còn lúng túng khi triển khai và các công việc này vẫn còn bỏ ngỏ, chờ các quy định hoặc hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát vẫn chủ yếu theo các quy định của pháp luật chung cho cả nước nên chưa có các hướng dẫn hoặc quy định đặc thù cho chính quyền đô thị thực hiện theo cơ chế phân cấp, ủy quyền. Từ đó, gây nhiều khó khăn cho việc triển khai trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, tạo nên tâm lý e ngại của một số doanh nghiệp về tính minh bạch, tính công tâm của chính quyền và phần nào cũng giảm đi sự phát triển như kỳ vọng về tổ chức chính quyền đô thị.

Thứ tư, đối với Thành phố Thủ Đức, hiện nay Luật Tổ chức CQĐP, Nghị quyết số 131 và Nghị quyết số 1111 chỉ quy định chung, Chính phủ chưa có nghị định riêng biệt, đặc thù cho Thành phố Thủ Đức (như đã nêu ở trên) nên phát sinh các khó khăn, thách thức cơ bản sau:

(1) TP. Hồ Chí Minh chưa thể thực hiện cơ chế phân cấp, ủy quyền nội bộ về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ nên Thành phố Thủ Đức hiện nay chỉ có thẩm quyền ngang với quận, huyện, chưa phát huy hiệu quả chính quyền thành phố thuộc thành phố, cụ thể: TP. Hồ Chí Minh chưa thực hiện việc phân cấp, ủy quyền cho Thành phố Thủ Đức về các lĩnh vực: thẩm quyền cấp phép đầu tư; thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư, chế độ chính sách của cán bộ, công chức… nên thẩm quyền hiện nay của Thành phố Thủ Đức vẫn phải thực hiện theo thẩm quyền quận, huyện được quy định trong các văn bản của Trung ương và TP. Hồ Chí Minh (như đã nêu ở trên).

(2) TP. Hồ Chí Minh vẫn chưa phân cấp, ủy quyền cho thành phố Thủ Đức quản lý trực tiếp 3 định chế trọng tâm: Khu đại học quốc gia, Khu công nghệ cao, Trung tâm tài chính Thủ Thiêm (khi được thành lập) nên chưa phát huy thế mạnh của “kiềng 3 chân: tri thức, khoa học – công nghệ và tài chính” như mục đích ban đầu đặt ra.

* Đặc thù của Thành phố Thủ Đức – đơn vị hành chính “cấp huyện khổng lồ” với tổng cộng số lượng công việc của 3 quận nhưng biên chế lại giảm, tạo ra sự quá tải về công việc, gây áp lực thời hạn giải quyết hồ sơ nhưng không có chính sách đãi ngộ đặc biệt nào cho “những người làm việc bằng 3”, từ đó làm giảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính thành phố thuộc Hồ Chí Minh.

* Trụ sở hệ thống chính trị Thành phố Thủ Đức phân chia thành các khu vực theo địa bàn hành chính 3 quận trước đây đã gây khó khăn cho cá nhân, tổ chức đến liên hệ công việc, trong khi mức độ cung ứng dịch vụ công trực tuyến chỉ đáp ứng mức độ 2, mức độ 3 (mức độ 4 rất ít) và việc xây dựng thành phố thông minh (Smart City) đang trong giai đoạn hình thành (đang triển khai thực hiện đề án “Xây dựng Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 – 2020, tầm nhìn đến năm 2025”).

Thứ năm, công tác quản lý, điều hành ngân sách không đáp ứng kịp thời việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế – xã hội tại địa phương. Nguyên nhân là do quận, phường không còn là một cấp ngân sách theo Nghị quyết số 131/2020/QH14 và Nghị định số 33/2021/NĐ-CP của Chính phủ. Đặc biệt, nếu phát sinh các nhiệm vụ chi ngoài dự toán thì thủ tục khá phức tạp. Quận phải báo cáo Sở Tài chính, rồi trình UBND TP. Hồ Chí Minh. UBND thành phố trình HĐND thành phố tại kỳ họp gần nhất. Quy trình này không đáp ứng kịp thời nhu cầu kinh phí cho quận, phường thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, các nhiệm vụ cấp bách, quan trọng về an sinh xã hội…

Nguyên nhân của các hạn chế nêu trên là do, ngoài Nghị quyết số 131/2020/QH14 và Nghị định số 33/2021/NĐ-CP, các văn bản pháp luật khác vẫn chưa được điều chỉnh một cách hệ thống, đồng bộ, chưa có quy định cụ thể để hỗ trợ cho việc triển khai tổ chức chính quyền đô thị tại các địa phương được Quốc hội cho phép thực hiện. Năng lực quản trị của chính quyền các cấp cũng như từng cán bộ, công chức, viên chức nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu quản trị tiến trình xây dựng và quản lý đô thị của  chưa đồng đều. Đặc biệt, năng lực dự báo chiến lược và năng lực nhận diện các vấn đề kinh tế – xã hội là quan trọng nhất và cũng là khó nhất. Ngoài ra, việc nghiên cứu, dự báo để xác lập cơ chế quản trị hiệu lực, hiệu quả trong môi trường số cũng là những thách thức lớn.

Xây dựng CQĐT đòi hỏi phải bám sát công nghệ hiện đại. Đồng thời, trong quá trình triển khai cần phải dự đoán, dự báo sự phát triển công nghệ trong tương lai để có thể lựa chọn công nghệ mang tính mở, có khả năng chuyển đổi, tích hợp giữa công nghệ hiện tại và tương lai. Ngoài ra, các giải pháp khoa học – công nghệ và công nghệ thông tin có sự phát triển, thay đổi liên tục. Trong khi đó, quy trình thực hiện dự án theo Luật Đầu tư công năm 2014 và Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 thì thời gian kéo dài, dẫn đến việc khi dự án được thông qua thì giải pháp công nghệ không còn phù hợp.

Tiến trình thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT Thành phố bị chi phối trước một loạt các vấn đề cần giải quyết, như: đại dịch Covid-19, chống ngập lụt, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông… Những vấn đề này ngày càng trở nên cấp bách trở thành một trong những nguyên nhân cản trở thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động CQĐT tại thành phố.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị thành phố trực thuộc trung ương

Việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu toàn diện để hướng tới xây dựng chính quyền địa phương theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển chung của đất nước trong giai đoạn mới, cần bám sát các định hướng:

Một là, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của CQĐT thành phố trực thuộc trung ương phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Chính phủ, đồng thời thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa các cấp CQĐT.

Hai là, xác định rõ thẩm quyền của CQĐT được chủ động thực hiện các biện pháp nhằm khai thác tối đa các nguồn lực, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của người dân. Kiến tạo môi trường thuận lợi để CQĐT thành phố trực thuộc trung ương có thể chủ động, tích cực thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm nâng cao đời sống của Nhân dân.

Ba là, xác định rõ mối quan hệ giữa Trung ương với địa phương. Trước hết, phải xác định rõ vị trí, tính chất của CQĐT trong mối quan hệ với chính quyền trung ương, khẳng định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CQĐT trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách, pháp luật trong phạm vi được phân cấp, phân quyền theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Cần quán triệt đúng nguyên tắc: việc gì, ở cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện tốt nhất thì phân giao đầy đủ quyền hạn và bảo đảm những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết. Cơ quan được phân giao thẩm quyền phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Các cơ quan chính quyền cấp trên tăng cường kiểm tra, giám sát nhưng không can thiệp, làm thay cấp dưới.

Bốn là, xác định rõ vị trí, tính chất của từng loại đơn vị hành chính. Đây là vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức hợp lý CQĐT. Thực tế trong thời gian vừa qua, số lượng các đơn vị hành chính ở nước ta đã tăng thêm quá nhiều, đặc biệt là ở cấp huyện, cấp xã. Điều này dẫn đến bộ máy hành chính trở nên ngày càng cồng kềnh, chi phí tốn kém. Do vậy, pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung và CQĐT nói riêng phải quy định rõ ràng và chặt chẽ các tiêu chí, điều kiện, quy trình, thủ tục hồ sơ… và trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức xây dựng đề án, thẩm định, quyết định, thành lập mới, giải thể, sáp nhập, chia tách, điều chỉnh đơn vị hành chính các cấp. Cần hướng đến sự ổn định lâu dài của hệ thống đơn vị hành chính, hết sức hạn chế việc điều chỉnh đơn vị hành chính.

Năm là, xác định cơ cấu tổ chức bộ máy của CQĐT phù hợp với đặc điểm của thành phố trực thuộc trung ương. Điều này có nghĩa là, cần phải xây dựng một hệ thống chính quyền địa phương với các mô hình cấu trúc đa dạng, phù hợp với đặc điểm của từng loại đơn vị hành chính. Xác định rõ cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương và cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.

Nguyễn Thị Hường
Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh