Nâng cao chất lượng bồi dưỡng viên chức tại Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Môi trường giáo dục đại học hiện nay đã có nhiều thay đổi, như: xu hướng hội nhập quốc tế, sự gia nhập của các trường đại học nước ngoài vào Việt Nam, ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin vào hoạt động đào tạo, xu hướng tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập… Theo đó, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh cần quan tâm, tăng cường bồi dưỡng đội ngũ viên chức không chỉ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, tận tụy với công việc mà còn phải thích ứng, năng động, sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp. Bài viết đề ra các nhóm giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng viên chức tại Trường.
Ảnh minh họa (internet).
Đặt vấn đề

Bồi dưỡng viên chức (BDVC) nhằm cung cấp, trang bị những kiến thức, kỹ năng và cách thức thực hiện công việc, nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ thực hiện công việc của viên chức, từ đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong tổ chức. Hơn nữa, BDVC còn đáp ứng nhu cầu học tập và phát triển cá nhân, nâng cao trình độ năng lực, phát huy tính năng động, sáng tạo của bản thân viên chức, giúp viên chức hiểu rõ bản chất công việc nghề nghiệp, nâng cao khả năng thích ứng đối với công việc trong tương lai.

Với mục tiêu trở thành cơ sở đào tạo, nghiên cứu hàng đầu của ngành giáo dục, là trung tâm đào tạo đại học, sau đại học cung cấp sản phẩm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo chuẩnquốc gia và khu vực, những năm gần đây, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng đội ngũ viên chức của nhà trường. Đảng ủy, Ban Lãnh đạo nhà trường đã xác định tăng cường BDVC, giảng viên, nâng cao năng lực thực hiện công việc của đội ngũ viên chức hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường.

Thực trạng bồi dưỡng viên chức Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh

Kết quả thực hiện công tác BDVC thời gian qua.

Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều chương trình BDVC, nhiều viên chức được tham gia vào các khóa học, như: đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn; bồi dưỡng chứng chỉ nghề nghiệp; bồi dưỡng theo vị trí việc làm; bồi dưỡng nghiệp vụ. Từ năm 2018 – 2022, có 73 viên chức, giảng viên tham gia đào tạo trình độ thạc sỹ; 56 người tham gia đào tạo trình độ tiến sỹ; 115 người được cử đi học tập các lớp cao cấp, trung cấp lý luận chính trị1.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của trường cơ bản có trình độ chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ được phân công, có tinh thần trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm trong tổ chức và thực hiện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phần lớn đội ngũ giảng viên của Trường đã được rèn luyện, trưởng thành trong quá trình xây dựng nhà trường, có phẩm chất đạo đức tốt, tích cực học tập nâng cao trình độ, thực hiện tốt công tác quy hoạch bồi dưỡng giảng viên. Đội ngũ giảng viên trẻ tích cực học tập nâng cao trình độ, số lượng giảng viên trẻ có trình độ cao tăng nhanh, đội ngũ cán bộ quản lý đang được dần trẻ hóa, đây chính là nhân tố bảo đảm giữ vững và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường.

Hoạt động bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ viên chức nhận được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám hiệu, xác định đây là công tác trọng tâm, là nhân tố quyết định trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Đảng ủy, Ban Giám hiệu đã cụ thể hóa các văn bản của các cấp về công tác cán bộ thành kế hoạch, hướng dẫn, quy định về tiêu chuẩn, về nhiệm vụ của từng chức danh; quy định về bồi dưỡng chuyên môn, ngoại ngữ, trình độ lý luận chính trị. Công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch bồi dưỡng đội ngũ đã trở thành việc làm thường xuyên của nhà trường và các đơn vị. Các đơn vị đã bắt đầu đưa nội dung thực hiện quy hoạch bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ vào mục tiêu chất lượng hằng năm của đơn vị để phấn đấu thực hiện.

Những hạn chế, bất cập trong triển khai công tác BDVC.

Trường chưa hoàn thiện quy trình về BDVC, chưa chú trọng các hoạt động khảo sát, đánh giá xác định nhu cầu bồi dưỡng hằng năm, xác định mục tiêu bồi dưỡng dẫn đến chưa đánh giá được hiệu quả bồi dưỡng. Việc cử viên chức đi học bồi dưỡng còn chưa có kế hoạch cụ thể, chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của lãnh đạo các đơn vị. Do không thực hiện phân tích, đánh giá, xác định nhu cầu đào tạo nên BDVC còn tập trung nhiều vào đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng các tiêu chuẩn vị trí việc làm theo ngạch, bậc. Việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ chỉ mang tính cập nhật các nội dung thay đổi theo các quy định của Nhà nước, như: tập huấn về tài chính kế toán, chính sách thuế, tiền lương, công tác tuyển sinh…, chưa quan tâm bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng thực tế khác.

Theo kết quả khảo sát viên chức, giảng viên tại trường, có 62% ý kiến cho rằng cần phải điều chỉnh chính sách đào tạo, bồi dưỡng viên chức; 20% ý kiến đánh giá triển khai chính sách trong quá trình tham gia đào tạo, bồi dưỡng chưa hiệu quả (Bảng 1)2.

Bảng 1. Khảo sát về triển khai chính sách đào tạo, bồi dưỡng viên chức
Nội dung khảo sát Tổng số phiếu Tỷ lệ (%)
Hiệu quả cao 13 7%
Hiệu quả nhưng cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tế 112 62%
Chưa hiệu quả 35 20%
Không hiệu quả 20 11%
Tổng 180 100%

(Nguồn: Kết quả khảo sát).

Việc lập kế hoạch bồi dưỡng ở một số đơn vị còn chưa thật sự chú ý đến chiến lược phát triển lâu dài, đăng ký nhu cầu bồi dưỡng hằng năm chưa sát với yêu cầu, thực tế tại đơn vị và chưa phù hợp với vị trí việc làm của viên chức. Số lượng viên chức đăng ký kế hoạch bồi dưỡng hằng năm cao, nhưng số lượng viên chức tham gia bồi dưỡng trong năm thấp hơn kế hoạch, đây là một trong những nguyên nhân làm cho kế hoạch BDVC hằng năm không đạt kết quả.

Khảo sát những vấn đề chưa hài lòng trong quá trình tham gia BDVC, có 60% ý kiến đánh giá hạn chế về kinh phí hỗ trợ còn hạn chế, chưa khuyến khích được tinh thần học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Ngoài ra, một số ý kiến khác, như: kế hoạch BDVC chưa xuất phát từ nhu cầu của đơn vị (15%); tham gia bồi dưỡng gây ảnh hưởng đến công việc (16%); chương trình đào tạo chưa phù hợp (9%)3.

Ngoài ra, công tác đánh giá sau bồi dưỡng là một bước quan trọng không kém trong quy trình BDVC, nhưng thực tế lại không được chú trọng, phối hợp thực hiện giữa cơ sở bồi dưỡng, đơn vị cử viên chức tham gia bồi dưỡng. Bởi vậy, dẫn đến chương trình bồi dưỡng còn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, hiệu quả bồi dưỡng chưa cao. Công tác quy hoạch BDVC chưa thật sự đáp ứng nhu cầu thực tế tại đơn vị, một số viên chức chưa được đào tạo đúng chuyên môn theo vị trí việc làm.

Giải pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng viên chức tại Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh

Một là, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp BDVC.

Việc đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp BDVC ở các trường đại học là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác giáo dục và đào tạo hiện nay, đòi hỏi sự đổi mới và sáng tạo, phù hợp với nhu cầu của xã hội. Cần cập nhật nội dung đào tạo, bồi dưỡng, thiết kế hình thức đào tạo và áp dụng phương pháp bồi dưỡng mới, qua đó nâng cao chất lượng BDVC. Trường cần tăng cường các khóa đào tạo chuyên sâu, tập trung vào việc giúp giảng viên nâng cao kiến thức và kỹ năng chuyên môn, đồng thời, cung cấp cho họ những kỹ năng mềm, như: kỹ năng giao tiếp, quản lý thời gian, phát triển nghề nghiệp.

Đa dạng hóa hình thức bồi dưỡng, ngoài các khóa học tập trung và ngắn ngày, trường cần cung cấp các hình thức bồi dưỡng mới, như: học trực tuyến, học qua video, trò chơi và các hoạt động trải nghiệm thực tế… Ngoài ra, khuyến khích và hỗ trợ giảng viên tự bồi dưỡng bằng cách cung cấp tài liệu, ứng dụng công nghệ thông tin, tạo điều kiện cho việc học tập trực tuyến, cơ hội thực hành và đánh giá hiệu quả. Đổi mới phương pháp bồi dưỡng, đẩy mạnh sử dụng phương pháp đào tạo hiện đại và sáng tạo, như: phương pháp học tập đồng nghiệp, học tập nhóm, phương pháp học tập tích cực, học tập theo dự án. Tạo điều kiện, xây dựng môi trường cho viên chức, giảng viên học tập liên tục để giảng viên có thể tiếp cận với các thông tin mới nhất và cập nhật kiến thức chuyên môn.

Hai là, hỗ trợ, giải quyết chế độ, chính sách đối với viên chức tham gia bồi dưỡng.

Nghiên cứu xây dựng, ban hành chế độ chính sách hỗ trợ cho viên chức tham gia bồi dưỡng nhằm bảo đảm sự phát triển nghề nghiệp và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ viên chức, như: hỗ trợ chi phí đào tạo; chế độ miễn, giảm học phí; chính sách linh hoạt về thời gian làm việc cho các viên chức tham gia các khóa học đào tạo, bồi dưỡng để bảo đảm việc học không ảnh hưởng đến công việc chính của viên chức; có cơ chế khuyến khích viên chức tự bồi dưỡng. Ngoài ra, kịp thời khen thưởng, khuyến khích đội ngũ giảng viên nâng cao trình độ chuyên môn và đóng góp tích cực vào sự phát triển của Trường.

Viên chức được cử đi bồi dưỡng theo nguồn ngân sách, học phí sẽ được nhà trường hỗ trợ là một trong những yếu tố tác động và có sức ảnh hưởng lớn đến chất lượng BDVC của nhà trường. Vì thế, nhà trường cần sửa đổi, hoàn chỉnh chính sách bồi dưỡng nhằm khuyến khích tinh thần học tập cho viên chức để nâng cao trình độ. Bên cạnh việc hỗ trợ chính sách bồi dưỡng thì nhà trường cũng nên tạo điều kiện về thời gian, bố trí, sắp xếp công việc hợp lý để viên chức yên tâm học tập, có thời gian nghiên cứu chuyên sâu những nội dung học tập từ chương trình bồi dưỡng.

Ba là, tăng cường quản lý, giám sát và đánh giá kết quả bồi dưỡng.

Xây dựng cơ chế quản lý, giám sát và đánh giá kết quả BDVC trường đại học. Quản lý, giám sát và đánh giá kết quả là bộ khung cần thiết để bảo đảm quá trình BDVC diễn ra hiệu quả và đạt mục tiêu. Cơ chế này bao gồm việc thiết lập các tiêu chuẩn bồi dưỡng, đánh giá, phân loại và quản lý hồ sơ các viên chức được bồi dưỡng. Nên đề xuất đánh giá kết quả theo các tiêu chí xét duyệt và xếp hạng theo năng lực, kinh nghiệm giảng dạy, sản phẩm nghiên cứu, hoạt động phục vụ, tham gia quản lý… Điều này giúp định hướng cho hoạt động bồi dưỡng và cải thiện việc xếp hạng viên chức.

Thực hiện đánh giá định kỳ, thiết lập hệ thống đánh giá về chất lượng bồi dưỡng, đánh giá hiệu quả của các khóa học và cơ sở bồi dưỡng. Qua đó, giúp xác định các vấn đề cần cải thiện và các điểm mạnh của quá trình bồi dưỡng. Kết quả đánh giá cần được công bố và chia sẻ với các cơ sở bồi dưỡng để cải thiện chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, cần nâng cao trách nhiệm của cơ sở bồi dưỡng, yêu cầu các cơ sở bồi dưỡng phải có kế hoạch đào tạo chi tiết, bảo đảm chất lượng đào tạo và đưa ra kế hoạch kiểm tra kết quả đào tạo. Các cơ sở bồi dưỡng cũng cần có trách nhiệm về chất lượng dịch vụ và bảo đảm việc đào tạo đáp ứng được nhu cầu của các viên chức.

Tăng cường giám sát, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ để bảo đảm chất lượng bồi dưỡng. Việc giám sát có thể bao gồm kiểm tra các cơ sở bồi dưỡng, theo dõi tiến độ đào tạo và đánh giá kết quả bồi dưỡng. Các vấn đề phát sinh cần được xử lý kịp thời để bảo đảm chất lượng dịch vụ. Đồng thời, trường cần cung cấp đầy đủ kiến thức và kỹ năng cho người quản lý để giám sát và đánh giá chất lượng bồi dưỡng. Điều này cũng giúp cho các cơ sở bồi dưỡng có sự đồng nhất trong các quy trình quản lý và bảo đảm đủ các tiêu chuẩn chất lượng.

Bốn là, thúc đẩy sự hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm giữa các trường đại học, tổ chức, doanh nghiệp.

Tổ chức các hội thảo, hội nghị, đào tạo chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm, kết hợp mời các chuyên gia, giảng viên từ các trường đại học cùng tham gia, đồng thời cũng có thể trao đổi kinh nghiệm trong quá trình thực hiện bồi dưỡng. Thực hiện hợp tác, thiết lập các mối quan hệ hợp tác để thực hiện đào tạo chung các khóa học bồi dưỡng, từ đó, giúp tăng cường chất lượng và độ đa dạng của các khóa học bồi dưỡng. Tạo điều kiện cho giảng viên, cán bộ quản lý của trường tham gia các khóa học bồi dưỡng tại các trường đại học khác để họ có thể tiếp cận với các phương pháp, kinh nghiệm mới nhất và từ đó cải thiện chất lượng công tác giáo dục và đào tạo của Trường.

Thiết lập các mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp và tổ chức, nhằm tạo điều kiện cho giảng viên, cán bộ quản lý và viên chức tham gia các khóa bồi dưỡng gắn với thực tiễn. Mở rộng mối quan hệ hợp tác với các đối tác trong và ngoài trường để trao đổi kinh nghiệm, học tập các mô hình tiên tiến và áp dụng vào công việc, tạo môi trường học tập và làm việc sáng tạo, đổi mới và cạnh tranh. Đồng thời, tận dung được các nguồn lực và năng lực ở các bên để phát triển các chương trình đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ.

Năm là, chú trọng quy hoạch, bố trí sử dụng theo vị trí việc làm trong hoạt động BDVC.

BDVC gắn với vị trí việc làm là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Qua thực tế, viên chức sau khi được đào tạo nâng cao trình chuyên môn về đơn vị làm việc, nếu được phân công thực hiện công việc, được bổ nhiệm vào đúng vị trí việc làm và đặc biệt là phù hợp với chuyên môn bồi dưỡng thì sẽ tạo cho viên chức động lực làm việc và nỗ lực hơn trong công việc, từ đó, năng suất làm việc tăng lên đáng kể.

Quy trình BDVC không thể thực hiện tách biệt với các hoạt động khác mà nó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trước hết là công tác quy hoạch viên chức lãnh đạo quản lý, BDVC theo vị trí việc làm, sử dụng viên chức. Theo đó, cần có sự phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực hiện tại của đơn vị, từ đó đưa ra dự báo nhu cầu nguồn lực cho tương lai cho đơn vị, xác định nhu cầu bồi dưỡng đối với viên chức được quy hoạch nhằm đáp ứng nhiệm vụ tốt hơn, đồng thời tạo cơ sở để xây dựng kế hoạch BDVC bám sát thực tế của đơn vị.

Chú thích:
1. Theo số liệu thống kê của Phòng Tổ chức – Hành chính, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
2, 3. Tác giả tổng hợp từ kết quả phiếu khảo sát 180 viên chức, giảng viên tại Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo:
1. Kết luận số 49-KL/TW ngày 10/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
2. Kết luận số 51-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
3. Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
4. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
5. Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
6. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tạ Thị Vân
Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh