Chuyển đổi số trong các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

(Quanlynhanuoc.vn) – Chuyển đổi số đang là xu hướng tất yếu, là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, bảo đảm cho doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp tư nhân nói riêng phát triển nhanh và bền vững. Bài viết làm rõ thực trạng chuyển đổi số trong các doanh nghiệp tư nhân cũng như đề xuất một số giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam.
Ảnh minh họa (internet).
Đặt vấn đề

Chuyển đổi số (CĐS) trong các doanh nghiệp (DN) đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ, đã tạo ra những thay đổi lớn cho các DN thuộc mọi loại hình và lĩnh vực khác nhau, trong đó có doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Ngày càng có nhiều DNTN tham gia CĐS và đạt được những thành tựu đáng kể. Do đó, cần phải đánh giá đúng những thành tựu, hạn chế trong quá trình CĐS của DNTN, từ đó, có giải pháp hiệu quả thúc đẩy quá trình CĐS trong các DNTN Việt Nam.

Vai trò của chuyển đổi số đối với sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam

Hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về CĐS. Khái niệm về CĐS được các tổ chức, cá nhân, DN thể hiện dựa trên các định nghĩa, phương hướng phát triển của riêng mình. Theo cách hiểu chung nhất, CĐS trong các DN là sự tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một DN, tận dụng các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của DN đó cũng như tăng tốc các hoạt động kinh doanh. Công nghệ số tiêu biểu thúc đẩy CĐS là: trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), chuỗi khối (Blockchain), điện toán đám mây (Cloud Computing), Internet vạn vật (IoT).

CĐS đem lại rất nhiều lợi ích cho DN nói chung, DNTN nói riêng. CĐS giúp DN cắt giảm chi phí sản xuất, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn; giúp các nhà quản trị ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt kịp thời; nâng cao năng suất làm việc của nhân viên…; từ đó, giúp nâng hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của DN được nâng cao.

Thực trạng chuyển đổi số trong các doanh nghiệp tư nhân

Nhận thức sâu sắc vai trò của CĐS đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy quá trình CĐS. Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó xác định mục tiêu đến năm 2030: “Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp”1. Đặc biệt, nhấn mạnh việc thực hiện “Chương trình chuyển đổi số quốc gia nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu. Kinh tế số chiếm 30% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%; Năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%”2. Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thúc đẩy quá trình CĐS trong các DNTN ở Việt Nam diễn ra nhanh chóng và đạt được những kết quả quan trọng.

Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trên 400 DN ở tất cả các quy mô cho thấy, các DN Việt Nam đã bắt đầu nhận thức và ứng dụng các công nghệ số vào các khâu, như: quản trị nội bộ, mua hàng, logistics, sản xuất, marketing, bán hàng và thanh toán. Trong lĩnh vực quản trị nội bộ, điện toán đám mây là công cụ kỹ thuật được nhiều DN Việt Nam sử dụng nhất, với 60,6%, tăng 19,5% so với thời điểm trước đại dịch Covid-19. Tiếp theo là hệ thống hội nghị trực tuyến, hệ thống quản lý công việc và quy trình với xấp xỉ 30% số DN đã ứng dụng các công cụ này trước khi có đại dịch Covid-19 và xấp xỉ 19% số DN đã được sử dụng các công cụ này từ khi có dịch bệnh. Đồng thời, khảo sát trên cho thấy kỳ vọng lớn của đại bộ phận DN Việt Nam đối với quá trình CĐS. Có tới 98% số DN kỳ vọng có sự thay đổi trong hoạt động sản xuất -kinh doanh khi thực hiện CĐS, trong đó lớn nhất là khả năng giúp giảm chi phí (chiếm tỷ lệ hơn 71%), giúp DN hạn chế giấy tờ (61,4%) đưa thêm giá trị gia tăng vào trong sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ (45,3%)3.

Hiện nay, ở Việt Nam, CĐS đã diễn ra ở tất cả loại hình DN và ở mức độ khác nhau. Trong ngành sản xuất, ngày càng nhiều DN đã ứng dụng tự động hóa, kết hợp các thiết bị thông minh như IoT, thiết bị nhúng và các phần mềm như phần mềm MES, ERP… để cải thiện hiệu quả hoạt động quản lý vận hành, tiết kiệm chi phí, tăng trưởng khách hàng và tăng cường tính toàn vẹn của chuỗi cung ứng.

Trong lĩnh vực ngân hàng, hầu hết các ngân hàng đã triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến trên Internet Banking và Mobile Banking cho khách hàng. Bên cạnh đó, một số ngân hàng còn cung cấp những dịch vụ ngân hàng số hiện đại hơn, như: VPBank với dịch vụ ngân hàng số Timo Bank; Vietcombank với không gian giao dịch công nghệ số Digial Lab; TPBank với việc cho ra mắt dịch vụ ngân hàng tự động LiveBank, LienVietPostBank với Thẻ phi vật lý Ví Việt.

Trong ngành Giao thông vận tải, đã hình thành các DN cung cấp dịch vụ gọi xe trong nước như Be hay FastGo. Đây là những DN có mô hình hoạt động hoàn toàn mới phụ thuộc hoàn toàn vào nền tảng công nghệ.

Ở ngành bán lẻ, nhiều DN có quy mô lớn, sở hữu tập khách hàng đa dạng như VinGroup đã xây dựng hệ thống để quản lý khách hàng thống nhất (VinID), giúp khách hàng tích hợp và quản lý thông tin khi giao dịch với VinGroup ở nhiều dịch vụ khác nhau như thanh toán các hóa đơn gia đình, tiền điện, mua sắm hay các dịch vụ nghỉ dưỡng,… Đa phần DN bán lẻ đã ứng dụng các phần mềm, giải pháp hoạt động quản lý đa kênh, bán hàng online, quản trị kênh phân phối.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình CĐS, các DNTN Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất cập, đó là: (1) Nhận thức về phát triển kinh tế số ở cả cấp độ quản lý nhà nước, cấp độ DN và của người dân chưa cao. Kiến thức của nhiều cán bộ, DN và người dân về kinh tế số, cùng những thời cơ và thách thức đối với sự phát triển chưa đồng đều ở các cấp, các ngành, dẫn tới nhu cầu, kế hoạch và hành động nắm bắt xu thế kinh tế số chưa kịp thời. (2) Hiện nay, Việt Nam vẫn đi sau thế giới về mặt công nghệ, chưa làm chủ được các công nghệ lõi của CĐS, các hệ thống nền tảng cơ bản. CĐS tại Việt Nam hiện vẫn cơ bản sử dụng các công nghệ sẵn có trên thế giới. (3) Hệ thống văn bản pháp luật ban hành còn thiếu đồng bộ, thiếu các quy định về giao dịch dữ liệu, bảo vệ cơ sở dữ liệu, dữ liệu cá nhân, thông tin riêng tư cũng như tạo lập niềm tin trên không gian số; thiếu quy định về quyền cá nhân, khi ứng dụng AI. Các quy định về định danh số và xác thực điện tử cho người dân chậm được ban hành. (4) Cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình CĐS còn hạn chế. (5) Nguồn lực kinh phí cho CĐS còn thiếu nhất là kinh phí đầu tư triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), hỗ trợ trang thiết bị phục vụ chuyên môn, xây dựng cơ sở dữ liệu phần mềm ứng dụng… (6) Nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam còn ít về số lượng, chưa bảo đảm về chất lượng, trong khi giáo dục Việt Nam chưa theo kịp xu thế phát triển như vũ bão của kinh tế số, đã gây ra khó khăn rất lớn cho quá trình CĐS tại các DN.

Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam

Để khắc phục những hạn chế, bất cập nhằm thúc đẩy quá trình CĐS trong các DNTN Việt Nam, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho các chủ thể về CĐS.

Rào cản lớn nhất để CĐS không phải là vốn, công nghệ mà chính là nhận thức của DN, Chính phủ, các địa phương và người dân. Việc chuyển sang nền tảng số đồng nghĩa với chuyển đổi mô hình kinh doanh, chuyển đổi về con người. Trong đó, sự chuyển đổi về con người là quan trọng nhất. CĐS tạo ra một hệ sinh thái thống nhất, có sự kết hợp chặt chẽ giữa con người và hệ thống công nghệ. Cho nên, việc CĐS cũng cần kèm theo sự thay đổi về nhận thức của các chủ thể. Để CĐS thành công, chất lượng bộ máy quản trị quốc gia là một trong những yếu tố then chốt, có ý nghĩa quyết định. Cần tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về kinh tế số để có sự chuẩn bị tốt nhất, thích ứng xu hướng phát triển kinh tế số. Nhận thức thông tin đúng về bản chất, xu hướng phát triển kinh tế số giúp nắm bắt các cơ hội cũng như bảo đảm tính cạnh tranh quốc tế. Mỗi cá nhân và người lãnh đạo cần tự trang bị và nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ số giúp phục vụ công việc trong tương lai và tự biết bảo vệ trước các nguy cơ bị đe dọa lấy cắp thông tin cá nhân trực tuyến.

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống văn bản pháp luật hỗ trợ cho quá trình CĐS.

Cơ chế, chính sách kinh tế có vai trò quyết định đối với quá trình CĐS. Do đó, để thúc đẩy quá trình CĐS trong các DNTN, trước hết, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ DNTN CĐS. Theo đó, cần triển khai thực hiện nhanh chóng, đồng bộ, hiệu quả các chính sách hỗ trợ DN CĐS, phù hợp với tình hình của từng DN. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ DN tiếp cận tài chính, khoa học – công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng,… phục vụ cho quá trình CĐS. Xây dựng các tài liệu, công cụ hướng dẫn CĐS cho DN. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cổng thông tin điện tử của Chính phủ và ngành, địa phương để tăng cường sự tương tác trên môi trường số giữa DN với chính quyền. Đồng thời, rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về DN, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình CĐS trong DN và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới dựa trên công nghệ số, Internet và không gian mạng. Tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về CNTT và truyền thông, như: Luật Giao dịch điện tử, Luật CNTT, Luật Viễn thông,… Ban hành chính sách, quy định cụ thể về thuế, phí để khuyến khích DN sử dụng, cung cấp các dịch vụ số; bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật xử lý các hành vi lừa đảo, gian lận khi giao dịch trên không gian mạng.

Ba là, tăng cường đầu tư xây dựng, phát triển hạ tầng số và nền tảng số.

Trước hết, về hạ tầng số cần tăng cường xây dựng, phát triển hạ tầng băng rộng chất lượng cao trên toàn quốc; phát triển hạ tầng mạng di động 5G; mở rộng kết nối Internet trong nước thông qua các kết nối trực tiếp ngang hàng, kết nối tới trạm trung chuyển Internet (IXP), tới trạm trung chuyển Internet quốc gia VNIX; phát triển hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT). Về nền tảng số, cần tập trung xây dựng hệ thống định danh và xác thực điện tử quốc gia; xây dựng hệ thống thanh toán điện tử; xây dựng và làm chủ công nghệ điện toán đám mây (Cloud); xác định danh sách các nền tảng số có khả năng triển khai dùng chung rộng khắp. Nhà nước tiếp tục có chính sách ưu đãi khuyến khích các DN công nghệ số Việt Nam tham gia đầu tư phát triển các hệ thống này.

Bốn là, phát triển nguồn nhân lực CNTT.

Nhân tố quan trọng nhất trong cạnh tranh và phát triển kinh tế số là nguồn nhân lực, đặc biệt nhân lực CNTT. Nguồn nhân lực CNTT là yếu tố then chốt, quyết định sự thành công của quá trình CĐS. Để phát triển nhanh, bền vững nguồn nhân lực chất lượng cao ngành CNTT cần lưu ý một số nội dung sau:

(1) Phát triển nguồn nhân lực cần gắn với những yêu cầu phát triển khoa học – công nghệ mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra. Điều này đòi hỏi phải hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý chất lượng đào tạo nhân lực ngành CNTT, cải tiến nội dung chương trình, tài liệu dạy học, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, thực hiện chuyển giao công nghệ giữa các DN và nhà trường, kết nối DN với nhà trường, cùng nhau xây dựng năng lực về đào tạo lại, đào tạo liên tục trong chuyên môn,…

(2) Thường xuyên rà soát, chuẩn hóa các nội dung, kiến thức đào tạo để đáp ứng yêu cầu đối với nhân lực ngành CNTT, việc chuẩn hóa này phải được thực hiện kết hợp giữa nhà trường và DN để cập nhật kịp thời kiến thức, kỹ năng mới nhất.

(3) Chú trọng đào tạo về kỹ năng đối với sinh viên ngành CNTT, đặc biệt là các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp và ngoại ngữ, bởi ngoại ngữ là yếu tố then chốt và đang là điểm thắt lớn nhất của nhân lực CNTT, rào cản nhân lực CNTT tiếp cận với kiến thức mới của thế giới và khu vực.

Kết luận

CĐS là xu thế tất yếu, là giải pháp quan trọng giúp các DNTN phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh tình hình hiện nay. Trên cơ sở nhận thức rõ những lợi ích to lớn và thách thức trong quá trình CĐS, các chủ thể, đặc biệt cộng đồng DN cần chung tay triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình CĐS trong các DN. Trong đó, cần tập trung tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho các chủ thể về CĐS;hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật hỗ trợ DN tư nhân CĐS; tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng số và nền tảng số; phát triển nguồn nhân lực CNTT đáp ứng yêu cầu CĐS… để các DN nói chung, DNTN nói riêng CĐS nhanh chóng và thành công.

Chú thích:
1, 2. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/06/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
3. Chuyển đổi số trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay: Những khó khăn cần tháo gỡ. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 11/12/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Công nghệ thông tin năm 2016.
2. Luật Giao dịch điện tử năm 2005.
3. Luật Viễn thông năm 2009.
4. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
ThS. Nguyễn Thanh Trà
Nguyễn Đức Lượng
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng