Văn hóa công vụ trong chuyển đổi số hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác văn hóa, văn nghệ trong giai đoạn 2021-2026, tầm nhìn đến năm 2045: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam”. Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và vận dụng vào thực thi văn hóa công vụ trên môi trường số thời điểm hiện nay rất quan trọng. Bài viết tập trung làm sáng rõ nội dung này.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá

Nghiên cứu hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam cho thấy, những luận điểm về văn hóa của Người là sự sáng tạo, khoa học, kết tinh những giá trị văn hóa Đông – Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, là nhân cách, bản lĩnh văn hóa của một nhà văn hóa kiệt xuất và là sự vận dụng sáng tạo lý luận về văn hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Tư tưởng của Người về văn hoá giữ vai trò định hướng việc xây dựng, phát triển, nâng cao tầm vóc nền văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài người. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.

Trong tình hình mới của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về xây dựng nền văn hóa của dân tộc phải được xây dựng trên năm điểm lớn:

“1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.

2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.

3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.

4-  Xây dựng chính trị: dân quyền.

5- Xây dựng kinh tế”2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá ý tưởng chiến lược văn hoá mà Người ấp ủ trên một chương trình hành động cho mỗi tập thể, cho mỗi con người trong sự “sinh tồn” mới của đất nước.

Bên cạnh đó, Người cũng căn dặn:

“Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ luộm thuộm, xa xỉ, loè loẹt;

Các làm việc phải siêng năng, có ngăn nắp, có tinh thần phụ trách, đã làm việc gì thì là cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn, chớ làm dối;

Các ứng xử với đồng bào thì nên thành thực, thân ái và sẵn lòng giúp đỡ…”3.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá chính là sự nhất quán giữa quan điểm và hành động. Tư tưởng của Người còn tiếp tục làm sâu sắc các chỉ dẫn hành động trong các bài viết kêu gọi đảng viên, cán bộ, nhân dân thực hiện: “cần kiệm liêm chính” (1949), “Thực hành tiết kiệm và chống tham ô lãng phí, chống bệnh quan liêu” (1952), Đạo đức cách mạng (1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969).

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền văn hoá Việt Nam

Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất (11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Văn hoá phải hướng dẫn quốc dân thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”; “Văn hoá soi đường cho quốc dân đi”. Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của đất nước Đảng đã đề ra nhiều định hướng và quan điểm chỉ đạo. Cụ thể:

– Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930: Đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hóa của dân tộc;

– “Đề cương văn hóa Việt Nam” năm 1943 chỉ rõ: “Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)” và chủ trương phát triển văn hóa theo ba hướng: Dân tộc – Khoa học – Đại chúng4.

– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960 đã xác định mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về văn hóa và áp dụng những nhận thức đó vào việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, thiết thực, phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân5.

– Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) xác định xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

– Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

– Nghị quyết số 33, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước: Trong Nghị quyết này, Đảng đã xác định một số nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị trường văn hóa.

– Kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

– Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa”6. Đại hội đã chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm:”Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”8. Đây là những quan điểm, nội dung quan trọng, xuyên suốt, có tính thế thừa và có nhiều điểm mới về phát triển văn hóa.

Như vậy, phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, của toàn hệ thống chính trị và của toàn dân. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới để văn hoá thực sự “soi đường cho quốc dân đi”.

Vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong thực thi công vụ trên môi trường số hiện nay

Trong thời đại công nghệ số, chuyển đổi số đã trở thành mục tiêu phát triển mang tính chiến lược. Trong đó, để hạn chế những rào cản về văn hóa do tác động của văn hoá, hướng tới chuyển đổi thành công, xây dựng văn hóa số là yêu cầu vần thiết, là kim chỉ nam, mang yếu tố quyết định trong quá trình chuyển đối số. Tuy nhiên văn hoá lại chính là một trong những rào cản đối với chuyển đổi số (xem biểu đồ 1).

Trong một nghiên cứu khác cũng chỉ ra văn hoá là một thách thức quan trọng đối với hiệu quả kỹ thuật số (xem biểu đồ 2):

Để văn hoá thực sự “soi đường”, Chính phủ cần loại bỏ những rào cản do văn hoá tác động tới nền kinh tế số. Trong cuốn sách mang tính bước ngoặt: Công dân kỹ thuật số, Isin và Ruppert (2015) lập luận rằng chính thông qua các hành vi kỹ thuật số mà các công dân kỹ thuật số ra đời. Với sự gia tăng của internet, các cơ hội tham gia vào đời sống công dân, xã hội và chính trị đã tăng lên. Do đó, quyền công dân kỹ thuật số có thể được định nghĩa đơn giản là “quyền tham gia vào xã hội trực tuyến”. Và, để hạn chế những rào cản của văn hoá đến cuộc cách mạng số, Chính phủ cần quan tâm hơn nữa đến một số nội dung như: Quyền công dân kỹ thuật số; Quyền kỹ thuật số; Kiến thức kỹ thuật số cho công dân số.

Một số giải pháp

Để văn hoá tiếp tục đóng vai trò “soi đường cho quốc dân đi” và nhằm hạn chế những ảnh hưởng, tác động trực tiếp của văn hoá tới hiệu quả của chuyển đổi số và nền kinh tế số, trong giai đoạn tới, xin đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, tiếp tục truyền thông nâng cao nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá làm kim chỉ nam cho mọi hành động thực thi nhiệm vụ trên môi trường số của cán bộ, công chức.

Thứ hai, tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trước hết là ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa: Làm tốt vai trò tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền để văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị. Văn hóa vừa là trụ cột, vừa là nền tảng phát triển xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.

Thứ ba, hoàn thiện thể chế về văn hoá, đáp ứng yêu cầu của bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 nhằm tạo một môi trường văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số giai đoạn 2021 – 2025 và đến năm 2030. Đề xuất điều chỉnh cập nhật nội dung “văn hoá số” trong hoạt động thực thi công vụ trên môi trường số tại Quyết định 1847 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án văn hoá công vụ.

Thứ tư, xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Kết luận

Văn hóa đã trở thành nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển của đất nước và con người Việt Nam trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Việc học tập và vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hoá, đường lối chủ trương của Đảng vê văn hoá là vô cùng quan trọng đối với cán bộ, công chức trong thực thi công vụ trên môi trường số.

Nhìn lại những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong 35 năm đổi mới gần đây, chúng ta có quyền tự hào về tư tưởng của Hồ Chí Minh đã để lại, về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vào những đóng góp to lớn cho nền văn hóa cho sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn hóa, tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để văn hoá thực sự sẽ có bước chuyển biến, tiến bộ mới, mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả cao hơn nữa, ghi một dấu mốc mới trên con đường chấn hưng, phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới8 như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong Hội nghị Văn hoá toàn quốc tổ chức ngày 24/11/2021.

Chú thích:
1,2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 3. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật. 2011, tr. 5, 458.
3. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật. 2011, tr.117.
4. Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III.1960.
6,7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật. 2021.
8. Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại hội nghị văn hóa toàn quốc. https://baotintuc.vn, truy cập ngày 19/5/2023.

ThS. Trần Thị Hiền
Trường Chính trị tỉnh Hải Dương