Công tác tiếp công dân ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế – thực trạng và giải pháp

(Quanlynhanuoc.vn) – Xác định công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, vì vậy trong thời gian qua, Thị ủy, Ủy ban nhân dân thị xã Hương Trà đã tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra các giải pháp phù hợp trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nhằm bảo đảm quyền lợi của công dân và góp phần ổn định chính trị, an ninh – trật tự, an toàn xã hội, tạo điều kiện để phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.
Lãnh đạo thị xã Hương Trà tiếp công dân ở phường Hương Vân. Ảnh: thuathienhue.gov.vn.
Thực trạng thực hiện tiếp công dân trên địa bàn thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế

Tiếp công dân (TCD) là công tác quan trọng, thông qua hoạt động TCD, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức tiếp nhận được các khiếu nại, tố cáo (KNTC) và những kiến nghị, phản ánh (KNPA) của Nhân dân. Từ đó khơi dậy và phát huy tiềm năng, trí tuệ, huy động được sự tham gia rộng rãi của Nhân dân vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm phục vụ tốt hơn công tác xây dựng, bảo vệ đất nước. Đảng và Nhà nước rất coi trọng công tác TCD, minh chứng hiện nay là Luật TCD được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ năm 2013; Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân, giải quyết KNTC nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị về vấn đề này. Bộ Chính trị cũng đã ban hành Quy định số 11-QĐ/TW ngày 18/02/2019 về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc TCD, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những KNPA của Nhân dân…

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác TCD, thời gian qua, Thị ủy, UBND thị xã Hương Trà đã đặc biệt quan tâm và kịp thời chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành, các địa phương tổ chức thực hiện tốt việc TCD theo quy định; quan tâm, chăm lo lợi ích thiết thực chính đáng của người dân. Vì vậy đã tạo được sự tin tưởng, đồng thuận cao của các tầng lớp nhân dân, góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.

Một là, về tổ chức bộ máy TCD.

Ban TCD thị xã Hương Trà được thành lập theo quy định của Luật TCD năm 2013, được tổ chức và bố trí phòng TCD thuận tiện cho người dân. Ban TCD thị xã và Ủy ban nhân dân (UBND) các phường, xã từng bước đi vào hoạt động đồng bộ, hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả công tác TCD, giải quyết KNTC, KNPA trên địa bàn; kịp thời tham mưu, đề xuất các giải pháp xử lý khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác TCD. Bố trí, phân công cán bộ, công chức (CBCC) thực hiện tốt nhiệm vụ TCD tại Ban TCD của thị xã và UBND các phường, xã.

Hai là, về hoạt động tiếp dân, giải quyết KNTC, KNPA của công dân.

Công tác TCD trên địa bàn thị xã Hương Trà luôn được lãnh đạo thị xã quan tâm và triển khai thực hiện theo quy định; thực hiện nghiêm túc các hình thức TCD thường xuyên, định kỳ, đột xuất của cấp huyện và cấp xã.

Trong giai đoạn 2017 – 2022, UBND thị xã Hương Trà và UBND các phường, xã đã thực hiện nghiêm túc, có sự gắn kết chặt chẽ giữa công tác TCD với công tác giải quyết KNTC, KNPA. Vì vậy, đã giải quyết kịp thời, dứt điểm nhiều trường hợp đơn thư phức tạp, kéo dài, qua đó góp phần ổn định an ninh chính  trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thị xã. Đồng thời, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; kịp thời điều chỉnh những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về công tác TCD, giải quyết đơn, thư, cụ thể:

Thị xã và các phường, xã đã tiếp 1.647 lượt công dân đến liên hệ; tiếp nhận 1.354 đơn KNTC, KNPA; giải quyết 1.105/1.121 đơn thuộc thẩm quyền (đạt 98,5 %). Tất cả các ý kiến của người dân tại các buổi TCD được người đứng đầu, công chức TCD hướng dẫn, giải đáp, những trường hợp còn lại chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tham mưu nghiên cứu, giải quyết để trả lời theo quy định của pháp luật1.

Ba là, về quy trình.

Hoạt động TCD tuân thủ theo đúng quy trình, thủ tục, quy định TCD; UBND thị xã đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động TCD, giải quyết KNTC, KNPA trên địa bàn, qua đó góp phần giải quyết kịp thời các bức xúc của người KNTC, tạo niềm tin trong Nhân dân, hạn chế được các vụ việc kéo dài, vượt cấp.

Bốn là, về chế độ cho cán bộ, công chức TCD.

Người làm công tác TCD được hưởng chế độ, chính sách, bồi dưỡng TCD và các chế độ khác quy định tại Điều 19 – 22 Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ; Nghị quyết số 37/2017/NQ-HĐND ngày 07/12/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành quy định chế độ bồi dưỡng đối với người làm nhiệm vụ TCD, xử lý đơn thư KNTC, KNPA trên địa bàn tỉnh.

Năm là, về công tác phối hợp TCD.

Công tác phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong công tác TCD, giải quyết KNTC, KNPA ngày càng được chú trọng hơn. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong giải quyết các vụ việc đông người, phức tạp ngày càng chặt chẽ nhằm đối thoại, hòa giải, vận động, thuyết phục, giải quyết các vụ việc ngay tại cơ sở, hạn chế được khiếu kiện đông người, vượt cấp.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình giải quyết KNTC trên địa bàn thị xã Hương Trà vẫn còn những hạn chế nhất định, như:

Bộ máy thực hiện nhiệm vụ TCD trên địa bàn thị xã chưa có kinh nghiệm; việc bố trí, phân công CBCC thực hiện công tác TCD và tham mưu giải quyết đơn thư ở một số đơn vị, địa phương trên địa bàn thị xã chưa hợp lý, chưa phát huy hiệu quả; năng lực, trình độ và kỹ năng của một bộ phận CBCC chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn, các địa phương trong việc giải quyết đơn thư KNTC, KNPA chưa được đồng bộ. Việc thống kê, theo dõi, đôn đốc tình hình giải quyết KNTC, KNPA mặc dù có sự quan tâm, nhưng vẫn còn tình trạng chậm trễ. Tình trạng đơn thư vượt cấp vẫn còn, nhất là trong lĩnh vực đất đai.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế: Do công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan TCD, giải quyết KNTC cho công dân chưa đuợc quan tâm đúng mức, dẫn đến công dân, tổ chức còn thiếu am hiểu về thủ tục, quy trình, trách nhiệm và nghĩa vụ trong lĩnh vực này; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế. Công chức địa chính thị xã và các phường, xã có sự chuyển đổi địa bàn công tác với mục đích chủ động phòng ngừa tham nhũng và bảo đảm phù hợp chuyên môn nghiệp vụ. Song, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng tham mưu, nắm bắt thông tin, theo dõi địa bàn và giải quyết, xử lý, trả lời đơn của người dân liên quan đến lĩnh vực đất đai. Năng lực, trình độ và kỹ năng của một bộ phận cán bộ, công chức làm nhiệm vụ TCD, giải quyết đơn, thư chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Một số vấn đề do lịch sử để lại hoặc chính sách, pháp luật về các lĩnh vực nhạy cảm, như: nhà ở, đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng… còn nhiều bất cập nên việc giải thích, trả lời cho công dân cũng như giải quyết đơn, thư cho người dân gặp nhiều vướng mắc. Một số trường hợp công dân lạm dụng các quyền, làm tăng tính phức tạp của vụ việc khi đến KNTC, KNPA; khiếu nại không có cơ sở nhưng vẫn tiếp tục khiếu nại, gây tốn kém chi phí, công sức và thời gian.

Giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp công dân ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu.

Các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TCD, giải quyết KNTC, KNPA. Đặc biệt là việc thực hiện Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác TCD và giải quyết KNTC. Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của công tác TCD, giải quyết KNTC, KNPA. Cần xác định đây là nhiệm vụ chính trị, quan trọng, thường xuyên; làm tốt công tác này sẽ củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước.

Người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, nhất là Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về tình hình giải quyết KNTC và công tác TCD. Thực hiện nghiêm chế độ TCD theo quy định của Luật TCD năm 2013. Chú trọng TCD tại cơ sở nhằm trực tiếp lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người dân. Chủ động đối thoại, vận động, thuyết phục công dân để giải quyết, tháo gỡ triệt để bức xúc, khiếu kiện, nhất là những vấn đề trong lĩnh vực đất đai, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại các dự án trọng điểm trên địa bàn và những trường hợp phát sinh KNTC đông người, phức tạp.

Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TCD.

Cần chủ động xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về TCD và giải quyết KNTC.Trong kế hoạch cần thể hiện rõ ràng nội dung công việc, thời gian, cách thức, phương pháp, trình tự tiến hành. Cấp xã là nơi trực tiếp triển khai thực hiện kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về TCD, KNTC. Ngoài ra, cần tập trung tuyên truyền ở các vùng trọng điểm liên quan đến các dự án đầu tư, thu hồi đất, tái định cư… vùng còn có những hạn chế nhất định về nhận thức pháp luật, hoặc còn khó khăn về điều kiện truyền thông để tổ chức thực hiện tuyên truyền, phổ biến mạnh mẽ về vấn đề này. Bên cạnh đó, chính quyền cấp xã cần thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở, kết hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hòa giải ở cơ sở.

Thứ ba, tăng cường công tác phối hợp giữa các đơn vị liên quan trong công tác TCD, giải quyết KNTC, KNPA.

Để thực hiện được điều đó thì yêu cầu người đứng đầu cơ quan đẩy mạnh rà soát, chỉ đạo, đôn đốc và đặc biệt là phân công, giao trách nhiệm tham mưu giải quyết đơn thư một cách rõ ràng, cụ thể để tránh tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu tính phối hợp trong công tác này. Cần tổ chức họp giao ban của Ban TCD hằng tháng để đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác TCD, công tác phối hợp của các cơ quan trong việc tham mưu giải quyết các vụ việc tồn đọng, kéo dài.Riêng các vụ việc có dấu hiệu phức tạp, cần chỉ đạo thực hiện rà soát để tổ chức TCD theo chuyên đề.

Thứ , nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác TCD.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức TCD, chú trọng tính ứng dụng, sát thực tiễn, phù hợp với trình độ, kết hợp chặt chẽ trang bị kiến thức lý luận và rèn luyện kỹ năng thực hành. Cần đổi mới phương thức bồi dưỡng, phương pháp truyền đạt. Ngoài những kiến thức cần thiết về nghiệp vụ thì cần tăng cường gợi mở, đưa ra các tình huống cụ thể để người tham gia tập huấn có thể trực tiếp trao đổi, chia sẻ kinh nghiệp để giải quyết tình huống, ứng dụng vào giải quyết công việc cụ thể tại cơ quan, đơn vị, địa phương.

Ngoài ra, để làm tốt công tác TCD, cần chú trọng lựa chọn, đào tạo cán bộ, công chức TCD bảo đảm đáp ứng yêu cầu về các kiến thức, kỹ năng bỗ trợ để hoàn thiện năng lực của người cán bộ TCD. Bên cạnh đó, quan tâm thực hiện chế độ, chính sách, tạo động lực cho cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ TCD.

Thứ năm, hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụcông tác TCD.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, các cơ quan, đơn vị cần bố trí phòng TCD đặt ở nơi dễ tìm, thuận tiện cho việc đi lại của người dân, trước phòng TCD phải đặt biển tên bộ phận TCD, trong phòng TCD cần bố trí tủ sách pháp luật, báo chí, tạp chí, mục lục thủ tục hành chính,… để công dân có thể tham khảo thông tin pháp lý, tìm hiểu các thủ tục hành chính, đối chiếu với lĩnh vực mình đang cần quan tâm, giải quyết. Phát huy hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đơn, thư; thực hiện liên thông 4 cấp phần mềm quản lý công tác tiếp dân và xử lý KNTC nhằm bảo đảm tính đồng bộ và nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết KNTC.

Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, đánh giá, định kỳ tổng kết công tác TCD.

Thường xuyên thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các tồn tại, hạn chế trong công tác TCD và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác TCD, giải quyết KNTC, KNPA để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý trách nhiệm đối với cá nhân có sai phạm.

Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết hoặc lồng ghép vào hội nghị kinh tế – xã hội để tổng kết việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác TCD, giải quyết KNTC để đánh giá khách quan, toàn diện kết quả và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế trong quá trình triển khai, thực hiện. Từ đó, nhân rộng những cách làm hay và khắc phục triệt để những hạn chế, thiếu sót; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân, đề nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân. Đồng thời, tổ chức hội nghị giao ban theo chủ đề định kỳ hằng tháng nhằm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và trực tiếp giải quyết triệt để các vụ việc có tính chất phức tạp, cần có sự tham gia của nhiều ngành.

Chú thích:
1. Báo cáo kết quả hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của UBND thị xã Hương Trà và các phường, xã các năm 2016 – 2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Tiếp công dân năm 2013.
2. Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo.
3. Trần Minh Hương. Giáo trình Thanh tra và Giải quyết khiếu nại, tố cáo (Trường Đại học Luật Hà Nội). H. NXB Công an nhân dân, 2010.
4. Vũ Công Giao và Nguyễn Minh Tâm. Quyền công dân và cơ chế bảo vệ quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11(291).
Dương Thị Minh Thi
Học viên cao học tại Học viện Hành chính Quốc gia