Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong bối cảnh mới

(Quanlynhannuoc.vn) – Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, công chức giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Bài viết phân tích việc cần thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đồng thời, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân trong bối cảnh mới.
Đội ngũ cán bộ, công chức giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Đặt vấn đề

Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo trong gần 40 năm đã mang lại nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng đối với mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Trong quá trình đó, Nhân dân luôn là vị trí trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để phát huy thành tựu to lớn đó nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhân tố quyết định có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) đáp ứng yêu cầu phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ (QLC) của Nhân dân trong bối cảnh mới.

Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời gian qua

Có thể nói, hoạt động của đội ngũ CBCC luôn hướng tới mục tiêu “lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”1, phục vụ xã hội ngày càng hiệu quả, bảo đảm đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Trong đó, đội ngũ công chức hành chính có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, vận hành, tổ chức bộ máy nhà nước, giúp cho hoạt động của Nhà nước thông suốt từ trung ương đến địa phương. Chính vì vậy, đội ngũ công chức hành chính nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự, kỷ cương và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của tổ chức, công dân theo quy định của pháp luật. Công chức “là công bộc của dân”2 có trách nhiệm xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân. Do đó, hoạt động của đội ngũ công chức gắn liền với hoạt động của nền hành chính nhà nước với hoạt động của thể chế chính trị. Hoạt động của đội ngũ công chức không chỉ phản ánh trình độ văn minh của nền hành chính mà còn phản ánh tính ưu việt của thể chế chính trị hiện hành. Mọi hoạt động của đội ngũ công chức đều có ảnh hưởng lớn đến uy tín của nền hành chính Nhà nước, niềm tin của Nhân dân với Đảng.

Nhận thức được tầm quan trọng này, trong công cuộc đổi mới đất nước nói chung và cải cách nền hành chính nhà nước nói riêng, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ công chức hành chính “vừa hồng, vừa chuyên”3, coi đó là mục tiêu, nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mỗi cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, đội ngũ công chức đông nhưng chưa mạnh và chất lượng chưa thực sự cao. Ở không ít địa phương, trong nhiều vụ việc cụ thể diễn ra, về năng lực lãnh đạo của cán bộ còn nhiều hạn chế, thiếu năng động, chủ động trong giải quyết công việc; thậm chí, có nơi vẫn để tồn tại tình trạng thiếu dân chủ, quan liêu, sách nhiễu, gây phiền hà cho người dân. Nhận định vấn đề này, trong Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI), Đảng ta cho rằng, vẫn còn “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau, “kể cả một số cán bộ cao cấp”4. Bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, quan liêu đã bộc lộ rõ “sức cản” của nó đối với yêu cầu phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, QLC thực sự của Nhân dân trong bối cảnh mới. Điều này phần nào làm xói mòn lòng tin của Nhân dân với nền hành chính nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Một trong những nguyên nhân căn bản của hiện tượng trên, đó là còn có “một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của Nhân dân và giải quyết chưa kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. QLC của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”5 của Nhà nước.

Ngay từ Văn kiện Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng đã chỉ rõ việc xây dựng và phát huy QLC của Nhân dân lao động là một trong những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội VIII (năm 1991), Đảng nhận định một trong những thành tựu của 10 năm đổi mới (1986 – 1996) là QLC của Nhân dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Đồng thời Đảng đã ra Chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm “mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới”6. Đồng thời, yêu cầu phải thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”7. Điều này cho thấy, dân chủ ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức để trở nên thực chất, thiết thực hơn và có kết quả rõ ràng. Dân chủ ở cơ sở đang là “chiếc chìa khóa vạn năng” để giải quyết những khó khăn, phức tạp trong quá trình đổi mới. Trong toàn bộ tiến trình mở rộng, thực hiện quyền dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, Đảng xác định khâu quan trọng và cấp bách là phát huy QLC của Nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Bởi vì, “quần chúng càng chủ động, càng có nhiều ý kiến, càng mạnh dạn và càng có tinh thần sáng tạo khi tiến hành công việc đó thì lại càng tốt”8.

Việc thực hiện mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa, QLC của Nhân dân trong bối cảnh mới là công việc vừa cấp bách, vừa lâu dài, phạm vi tác động rộng lớn. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã huy động sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân”9. Điều này cho thấy, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;… lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”10.

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của thể chế hóa, thực hiện QLC của Nhân dân theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước 2011 và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. Để cải cách hành chính theo phương châm “nền hành chính phục vụ” Nhân dân, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo việc cải cách các yếu tố, bộ phận, nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình này. Xây dựng đội ngũ CBCC yếu tố mang tính quyết định của quá trình cải cách nền hành chính nước nhà (bởi vì họ là những người thay mặt cho chính quyền nhà nước để giải quyết các công việc của Nhân dân), do đó cũng cần “… có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân”11.

Xây dựng đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu bối cảnh mới

Thứ nhất, tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện chiến lược xây dựng đội ngũ công chức phù hợp với tình hình mới. Phải lấy đào tạo, bồi dưỡng làm trọng tâm. Trong đào tạo, bồi dưỡng không chỉ chú ý đến bồi dưỡng về chính trị mà phải đặc biệt chú ý đến chất lượng kỹ năng, phải có kế hoạch xây dựng một đội ngũ công chức giỏi trên nhiều lĩnh vực, đồng thời có ý thức chính trị cao, có phẩm chất đạo đức tốt. Tiếp tục rà soát thực tế đội ngũ công chức một cách cụ thể về năng lực, trình độ, phẩm chất, từ đó có sự phân loại để tinh giản biên chế. Xác định rõ:“Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung”12.

Tiếp tục hoàn thiện từng loại chức danh CBCC trên cơ sở Luật CBCC năm 2008 (bổ sung, sửa đổi năm 2019) và các quy chế, quy định khác để đội ngũ công chức “không dám” tham nhũng. Theo đó, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng CBCC theo phương châm “có vào có ra, có lên có xuống” trong công tác cán bộ của Đảng13. Kế hoạch tuyển chọn công chức cần phải được xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chuẩn đối với từng loại chức danh công chức trong bộ máy nhà nước, cần rõ ràng, công khai, minh bạch, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực thi. Quy định chuẩn đối với công chức nhà nước thuộc cả trung ương, tỉnh, huyện, xã.

Đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng thời, tiếp tục thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác luân chuyển, tạo điều kiện cho CBCC trưởng thành trong thực tiễn. Những môi trường, điều kiện làm việc khác nhau ở cơ sở sẽ giúp cho cán bộ phát huy được năng lực sáng tạo, đồng thời, tránh được tình trạng xa rời thực tiễn, nhất là với những cán bộ sau đó công tác ở các cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách.

Thứ hai, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, QLC của Nhân dân trong bối cảnh mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cần có nhiều nội dung, phù hợp với sự đòi hỏi của đặc thù lĩnh vực. Tuy nhiên, “Bộ ba”: Thẩm quyền – Quy trình – Thủ tục nhằm cụ thể hóa quyền, nghĩa vụ của công chức là vô cùng quan trọng. Với bất kỳ nghiệp vụ nào của bất kỳ chức danh đội ngũ công chức nào cũng cần coi trọng và được đào tạo kỹ bộ ba này. Thực tiễn cho thấy, đội ngũ công chức thực thi công vụ sai lầm về thẩm quyền trong bộ máy nhà nước là loại nguy hại nhất, sau đó, đến việc dù có phẩm chất tốt, động cơ phục vụ Nhân dân trong sáng nhưng không nắm vững quy trình và thủ tục sẽ làm mất lòng tin từ dân, hiệu quả làm việc thấp. Do đó, phải có cơ chế giám sát, kiểm tra, kiểm soát quyền lực, trách nhiệm giải trình của đội ngũ công chức, đặc biệt là người đứng đầu.

Bên cạnh đó, việc đào tạo, bồi dưỡng các loại kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ CBCC là vô cùng quan trọng. Những kỹ năng được chú trọng hiện nay gồm:

(1) Kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại phục vụ nền hành chính, chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 4, “đẩy mạnh thực hiện chế độ không thanh toán bằng tiền mặt”14 để đội ngũ công chức “không dung tiền mặt”, góp phần giảm tham nhũng.

(2) Kỹ năng làm việc với con người (kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng quan hệ trong hệ thống hành chính nhà nước và kỹ năng giao tiếp với nhân dân, với doanh nghiệp).

(3) Kỹ năng liên ngành (biết vận dụng lý luận về tổ chức và vận động cả bộ máy hành chính nhà nước, hiểu được tâm lý cá nhân, tâm lý tập thể, tâm lý người lãnh đạo, người quản lý và làm việc trong môi trường cộng tác).

Thứ ba, tạo động lực mạnh mẽ để thu hút đội ngũ CBCC có chất lượng cao, đạo đức công vụ trong sáng. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống để CBCC, viên chức yên tâm công tác”15. Đây là một trong những giải pháp quan trọng cần phải có. Việc đãi ngộ đội ngũ CBCC tốt thì không chỉ hấp dẫn được những cán bộ có trình độ, chuyên môn giỏi mà còn gìn giữ được những phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng, ngăn ngừa được tình trạng tham ô, tham nhũng, cửa quyền, gây khó dễ cho người dân trong thực thi công vụ của mỗi cán bộ. Đồng thời, đãi ngộ đội ngũ CBCC theo hiệu quả công việc sẽ khuyến khích sự sáng tạo, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với Nhà nước, với cộng đồng xã hội.

Kết luận

Việc xây dựng đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, QLC của Nhân dân trong bối cảnh mới, là một nội dung quan trọng, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Từ kinh nghiệm quốc tế cũng như những bài học rút ra từ thực tiễn, Đảng và Nhà nước phải thiết lập bằng được cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để đội ngũ CBCC “không thể tham nhũng”, cơ chế phát hiện, xử lý hiệu quả để “không dám tham nhũng” và cơ chế bảo đảm, đãi ngộ hợp lý để “không cần, không muốn tham nhũng”. Đó chính là giải pháp lâu dài và triệt để nhằm xây dựng đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.

Chú thích:
1, 5, 7, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 28, 173, 96, 173, 178-179, 187, 192, 94-95, 196.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen.Toàn tập. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, 1993, 47.
3. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 539.
4. Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/01/1992 của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
6. Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
8. V.I. Lênin.Toàn tập. Tập 31. H. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977ttr. 337.
TS. Đặng Văn Luận
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh