(Quanlynhanuoc.vn) – Uzbekistan và Việt Nam là hai nước châu Á có nhiều điểm tương đồng về lịch sử kinh tế. Đều theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sau đó, chuyển đổi mô hình kinh tế và áp dụng biện pháp thay đổi dần dần, từng bước quá độ sang nền kinh tế thị trường. Việc nghiên cứu và so sánh quá trình chuyển đổi kinh tế của Uzbekistan, đặc biệt ở các doanh nghiệp nhà nước đem lại một số kinh nghiệm cho Việt Nam.
Sơ lược về quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Uzbekistan
Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở Uzbekistan hiện đang được chuyển đổi thành công ty cổ phần. Các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) chiếm 45% tổng số các công ty có đăng ký (trong đó đa số các công ty tư nhân có quy mô vừa và nhỏ). Nhưng các quyết định kinh doanh, như: định giá, xác định đầu ra, đầu tư… vẫn không theo quy luật thị trường và định hướng kinh doanh, đặc biệt là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chế tạo và dịch vụ thương mại. Điều này đã gây ra sự “méo mó” thị trường và phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Thêm vào đó, chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp (DN) cũng chưa được xác định rõ ràng cũng đã tạo ra sự quản lý lỏng lẻo trong hoạt động DN.
Kinh nghiệm từ những nước chuyển đổi khác cho thấy muốn đặt nền móng cho sự tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững thì cần phải giải quyết những vấn đề kể trên. Trong đó, có Chính phủ Uzbekistan đã nhận thức được những thách thức đó, đồng thời nhận định rằng nếu không giải quyết một cách hiệu quả những thách thức đó thì có rất nhiều khả năng là toàn bộ chương trình cải cách kinh tế sẽ thất bại. Theo đó, một trong những nội dung chính trong chương trình chính sách mà Chính phủ Uzbekistan đưa ra, đó là tái cơ cấu để cải thiện môi trường kinh doanh cạnh tranh.
Chính phủ cũng đã chỉ ra 6 thách thức chính sách lớn, cụ thể: (1) Những người ra chính sách và các đối tác thị trường còn chưa hiểu rõ khái niệm về cạnh tranh và điều tiết trong nền kinh tế thị trường; (2) Việc xây dựng và thực thi các chính sách cạnh tranh và điều tiết không gắn kết với mục tiêu và thiết kế chương trình cải cách tổng thể nền kinh tế của Chính phủ; (3) Nền tảng kiến thức và năng lực của Chính phủ còn rất hạn chế để có thể phân tích cơ cấu công nghiệp của đất nước và các yếu tố ảnh hưởng tới sự cạnh tranh của môi trường kinh doanh; (4) Cơ quan xây dựng và thực thi chính sách cạnh tranh và điều tiết của Chính phủ chưa thực sự độc lập về cơ cấu tổ chức và hoạt động, hệ thống kiểm soát và đối trọng còn yếu, chưa bảo đảm được tính minh bạch và trách nhiệm cao trong khu vực công; (5) Chưa hình thành động cơ quản trị DN đủ mạnh để các công ty thi đua nâng cao năng suất, hiệu quả, đồng thời, phân định chức năng giữa Chính phủ và DN, đặc biệt là ở các “hiệp hội” nhà nước và các tập đoàn có liên quan nắm giữ phần lớn cổ phần; (6) Chuyển đổi cơ cấu cạnh tranh và mở cửa các ngành độc quyền về cơ sở hạ tầng (đặc biệt là những ngành không phải là độc quyền tự nhiên) và cải cách hoạt động giám sát của pháp luật đối với các DN độc quyền trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng theo một cơ chế dựa trên nền tảng pháp luật.
Nhiều bất cập về cơ cấu của Uzbekistan cũng tồn tại phổ biến ở các nước cộng hòa Trung Á khác. Chính vì thế, kinh nghiệm của Uzbekistan có thể áp dụng cho các nước có bối cảnh tương tự.
Cạnh tranh và điều tiết ở Uzbekistan
Khuôn khổ thể chế
Uzbekistan đã đạt được tiến bộ lớn kể từ khi tiến hành cải cách nhằm xây dựng khuôn khổ thể chế góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh. Khuôn khổ thể chế hiện vẫn đang được tiếp tục được hoàn thiện. Theo chương trình Chính sách chống Độc quyền, mục tiêu trọng tâm của chương trình cải cách cạnh tranh và điều tiết do Ủy ban Chống độc quyền (Anti-Monopoly Committee – AMC) thực hiện là phát triển các loại hình DN và môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế; điều tiết các hoạt động của các DN độc quyền; ngăn chặn sự thao túng của các công ty chiếm vị trí thống lĩnh thị trường; áp dụng chế tài đối với các công ty cạnh tranh không lành mạnh; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Khuôn khổ thể chế mới hình thành cùng với các mục tiêu chính sách nói chung có sự thống nhất với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu kể trên, chính quyền Uzbekistan đã gặp phải một thách thức rất lớn cần bảo đảm rằng, các quan chức hoạch định chính sách ở các bộ, ngành then chốt (cả cấp trung ương và địa phương) cũng như các bên tham gia thị trường (gồm DN, DNNN, Quỹ Đầu tư tư nhân hóa (Privatization Investment Funds – PIF) và ngân hàng), người tiêu dùng, người lao động và người dân nói chung, đều phải hiểu những khái niệm cơ bản của cạnh tranh và điều tiết, đồng thời phải tích cực hành động nhằm tận dụng vai trò của các lực lượng cạnh tranh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng. Thách thức này đặt ra cho nhiều ngành, nhiều nơi phải đặt ra ưu tiên hành động, đặc biệt là huy động nguồn lực đào tạo, tư vấn để ban hành chính sách sát với thực tiễn và có tính giáo dục để người dân hiểu về cạnh tranh và điều tiết.
Đăng ký độc quyền
Các DN ở Uzbekistan được coi là “thống lĩnh thị trường” khi chiếm ít nhất 65% thị phần. Trong một số điều kiện nhất định, tỷ lệ này là ít nhất 35%. Những công ty đó được đưa vào danh sách của AMC và phải khai báo (đăng ký) giá và lợi nhuận để được AMC thông qua1. Ngoài ra, những công ty độc quyền có đăng ký một khi đã thỏa thuận và đi đến thống nhất với nhà cung cấp đầu vào và nhà tiêu thụ đầu ra về khối lượng hàng hóa, thời gian giao hàng và các điều khoản khác (cũng như giá cả) thì phải đăng ký các điều khoản giao dịch này cùng với lợi nhuận dự kiến với AMC. Trong một số trường hợp, điển hình là độc quyền về cơ sở hạ tầng (công trình công ích), AMC trực tiếp quyết định giá cả và lợi nhuận.
Kể từ ngày 01/10/1999, có 716 DN và 1924 sản phẩm nằm trong danh sách đăng ký độc quyền của AMC. Trong đó, 91 DN và 215 sản phẩm được đăng ký độc quyền cấp quốc gia. Còn lại (chiếm đa số) được đăng ký tại văn phòng địa phương của AMC. Ở Uzbekistan có khoảng 178 nghìn công ty đăng ký kinh doanh. Phần lớn trong số đó có quy mô vừa và nhỏ. Các công ty tư nhân chiếm khoảng 45% tổng số DN đăng ký2.
Kiểm soát giá cả
Cán bộ quản lý cao cấp của AMC nhận thấy rằng nếu chỉ dựa vào việc kiểm soát giá cả và lợi nhuận thì sẽ không mang lại hiệu quả và cũng không phải là cách tốt để thúc đẩy cạnh tranh trong các khu vực thương mại và chỉ tạo ra sự phân bổ nguồn lực kém hiệu quả trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cả AMC cũng như cộng đồng DN đều chưa có đủ năng lực để hiểu đầy đủ cách thức làm thế nào để chuyển sang một hệ thống giám sát, đồng thời còn chưa học hỏi được các kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này.
Xác định phạm vi thị trường kinh tế
Việc xác định sản phẩm và biên giới về mặt địa lý của thị trường (cho phép xác định thị phần và sự thống lĩnh thị trường một cách chính xác về mặt kinh tế thay vì áp dụng các công thức định tính mà pháp luật tự đặt ra, những công thức xác định một cách áp đặt công ty nào là độc quyền); giá cả và độ co giãn chéo để xác định cầu thị trường và mức độ thay thế của hàng hóa; chi phí cố định và chi phí cận biên trong mối quan hệ với việc xác định giá cả và tối đa hóa lợi nhuận; hệ số tập trung của người bán và người mua; các yếu tố quyết định hang rào gia nhập và rời thị trường… Với sự trợ giúp của các chuyên gia quốc tế, các cán bộ của AMC hiện đang được đào tạo về các vấn đề về cạnh tranh trong năm qua. Gần đây, AMC đã xây dựng “Kế hoạch công tác về đào tạo và trợ giúp” cho tương lai. Nếu được thực thi, kế hoạch này có thể giúp giải quyết một số thiếu hụt về kiến thức kể trên.
Công ty chiến lược
Một thành phần chủ chốt khác trong chương trình của AMC là xây dựng các kế hoạch “phi độc quyền hóa” một số ngành và DN trong nền kinh tế Uzbekistan. Đây là một mục tiêu cần khuyến khích thực hiện: việc chuyển đổi cơ cấu cạnh tranh nhiều ngành công nghiệp của nước này phải là ưu tiên hàng đầu trong chương trình cải cách của chính phủ. Tuy nhiên, trong dự thảo Chương trình Xây dựng môi trường cạnh tranh cho giai đoạn được trình Hội đồng Bộ trưởng, những cơ chế đề xuất dành cho chương trình tái cơ cấu không tuân theo cách tiếp cận dựa trên khái niệm kinh tế về cạnh tranh. 29 ngành/công ty được xác định là đối tượng phi độc quyền hóa (từ lĩnh vực sản xuất rượu sâm panh, cô nhắc cho đến ba lô, xà phòng tắm, nước sốt mayonnaise và nhiều sản phẩm dầu ăn khác). Một điều cần nhắc tới là liệu một số ngành có cần phải “phi độc quyền hóa” có thực sự làm tăng mức độ cạnh tranh của nền kinh tế hay không? Có đáng để Chính phủ dành ngân sách và nguồn vốn hạn hẹp để tái cơ cấu hay không? Trong một số trường hợp, thị phần cần phải giảm thì dường như không phải độc quyền. Ví dụ, sản xuất ba lô chiếm 37% thị phần, sản xuất dầu diesel chiếm 20% và dầu nhiên liệu chiếm 15% thị phần3. Rõ ràng, việc thực hiện chính sách phi độc quyền hóa là một nỗ lực lớn đối với bất kỳ chính phủ quốc gia nào và cần phải làm thận trọng để tránh gây ra méo mó thị trường cho nền kinh tế. Về vấn đề này, Uzbekistan đã quy định thêm về chiến lược phi độc quyền hóa và cơ chế thực thi chiến lược đó.
Văn bản pháp luật về cạnh tranh
Cần phải cải thiện khuôn khổ luật pháp hiện nay về cạnh tranh và chính sách điều tiết. Đó được coi là một lĩnh vực ưu tiên trong cải cách của AMC. Việc sử dụng các khái niệm lập pháp của quốc tế hết sức hữu ích khi soạn thảo luật, trong đó cần đề cập là việc ban hành và thực thi bất kỳ luật mới nào trong lĩnh vực ưu tiên dù có thành công hay không phụ thuộc vào mức độ am hiểu các khái niệm đó của các nhà lập pháp và các nhóm chịu ảnh hưởng (DN, người lao động, người tiêu dùng). Vì vậy, tập trung giáo dục và tiếp cận cộng đồng cần phải được thực hiện thường xuyên.
Giáo dục và tiếp cận cộng đồng
Các tổ chức phi chính phủ đóng vai trò quan trọng trong giáo dục người dân về lợi ích của cạnh tranh trong quá trình phát triển kinh tế ở Uzbekistan. Giống như ở một số nước, việc thành lập các quỹ độc lập, phi lợi nhuận để tuyên truyền về cạnh tranh có thể hỗ trợ cho Chính phủ trong việc tiếp cận cộng đồng. Vai trò thanh tra, kiểm tra, cung cấp một công cụ hữu hiệu để phản ánh khiếu nại của khách hàng về vi phạm kinh doanh, tham nhũng và sự thiếu hiệu quả trong các chương trình của Chính phủ. Một quá trình như vậy có thể thu hút người dân tham gia vào cải cách thị trường, làm cho họ ủng hộ hơn và giúp họ tạo chuyển biến về hành vi.
Gắn kết chính sách cạnh tranh với chương trình tái cơ cấu
Một mục tiêu cốt lõi trong chương trình cải cách kinh tế của chính quyền là cải thiện môi trường kinh doanh ở Uzbekistan. Tuy nhiên, cho đến nay, các chính sách điều tiết và cạnh tranh cùng với những mục tiêu mà chính sách đó cần đạt được vẫn chưa được đưa vào chương trình cải cách kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu của Chính phủ.
Loại bỏ rào cản gia nhập đối với lực lượng mới và tái cơ cấu lực lượng cũ
Trọng tâm trong cơ chế, chính sách cạnh tranh hiện nay mới chỉ tập trung áp dụng cho các công ty hiện có. Mục tiêu lớn hơn là khuyến khích tái cơ cấu và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Muốn làm được điều đó, cần phải có định hướng kích thích tăng trưởng thông qua việc hình thành các DN mới, không chỉ là thông qua việc tư nhân hóa các DNNN hiện có mà quan trọng hơn là cần khuyến khích các lực lượng mới gia nhập thị trường (kể cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài). Ở Uzbekistan, khảo sát gần đây cho thấy, các DN mới gặp phải các rào cản lớn về hành chính và chính sách khi gia nhập, bao gồm yêu cầu khắt khe về cấp phép ở cả trung ương và địa phương; cản trở tiếp cận thị trường ngoại hối; khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng và từ các nguồn tài chính khác; gánh nặng thuế khóa, áp thuế một cách tùy tiện; khó khăn trong phân phối sản phẩm và những khó khăn khác. Yếu tố quyết định đối với việc kích thích cạnh tranh là phải tập trung vào tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề này như là một phần trong chương trình tái cơ cấu.
Loại bỏ các công ty yếu kém và siết chặt giới hạn ngân sách
Chính phủ chưa quan tâm tới việc khuyến khích các DN yếu kém phá sản, kể cả việc thanh lý những công ty không còn khả năng thanh toán. Hoàn toàn dễ hiểu khi có người quan ngại về những chi phí xã hội mà điều đó gây ra. Tuy nhiên, với mạng lưới an sinh xã hội phù hợp, những chi phí đó hoàn toàn có thể được giảm thiểu. Kinh nghiệm quốc tế mang lại cho Uzbekistan những bài học quan trọng về lợi ích của việc giảm trợ cấp tài chính và tài khóa cho các công ty “siết chặt giới hạn ngân sách” nhằm tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh cho các công ty hoạt động hiệu quả và loại bỏ những công ty không còn khả năng tồn tại. Nếu xét trên quan điểm tái cơ cấu rộng lớn hơn, quá trình phá sản mang lại những lợi ích quan trọng thì tạo điều kiện chuyển giao nguồn lực sản xuất từ những công ty yếu kém sang những DN mới có khả năng tạo nhiều việc làm và sản phẩm. Quan trọng hơn, việc tạo điều kiện phá sản không nên chỉ được xem xét trên quan điểm của Chính phủ; mà cần phải chú ý tới quyền lợi hợp pháp của các chủ nợ ở đất nước này. Thực hiện được điều này sẽ thúc đẩy cải cách hệ thống ngân hàng, hướng họ tới việc phải cân nhắc thận trọng trước kia đưa ra quyết định tín dụng, cho vay và thu hồi nợ, dựa cơ sở các tiêu chí thương mại và rủi ro. Việc áp dụng kỷ luật DN vào hoạt động của các công ty trong khu vực công đòi hỏi phải tái cơ cấu các ngành công nghiệp của Uzbekistan theo định hướng cạnh tranh.
Mở cửa thương mại quốc tế và tự do hóa thị trường ngoại hối
Thực tế cho thấy, những hạn chế thương mại và hối đoái ở Uzbekistan đã giúp các ngành công nghiệp yếu kém tránh khỏi sự cạnh tranh của các lực lượng thị trường mạnh. Kết quả là điều đó đã khuyến khích việc phân bổ nguồn lực kém hiệu quả, giảm năng suất và chất lượng hàng hóa/dịch vụ kém. Quy định hạn chế về thương mại, như là yêu cầu đăng ký và trả trước đối với sản phẩm nhập khẩu đi kèm với thuế nhập khẩu cao đã được ban hành năm 1997 và hiện vẫn còn hiệu lực. Những ngành thương mại mà Nhà nước độc quyền như xuất khẩu bông và vàng đem lại khoảng 40% ngoại hối cho quốc gia cũng làm giảm sự cạnh tranh trong nền kinh tế4. Đồng thời, cơ chế hai tỷ giá và yêu cầu bán ngoại tệ cũng làm “méo mó” cơ cấu nền kinh tế.
Việc loại bỏ các hạn chế về thương mại và ngoại hối được coi là một điều kiện tiên quyết để thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế và đưa Uzbekistan vào con đường tăng trưởng bền vững. Ngoài ra, việc gia nhập WTO cũng là một yếu tố quan trọng để cải cách cơ chế thương mại và loại bỏ hạn chế thương mại theo cam kết quốc tế. Dưới lăng kính của việc xác định cải cách để thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế Uzbekistan, việc gia nhập WTO cần phải coi là một ưu tiên của Chính phủ.
Cải thiện cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đây là một nội dung chính sách quan trọng trong chương trình tái cơ cấu rộng lớn nhằm thúc đẩy cạnh tranh trong ngành công nghiệp. Nguồn vốn FDI không chỉ mang ý nghĩa là sự chuyển giao nguồn lực tài chính mà quan trọng hơn là nền kinh tế được nhận chuyển giao công nghệ, sản phẩm mới và quy trình sản xuất mới, nâng cao kỹ năng quản lý và chuyên môn, và tạo áp lực cạnh tranh đối với các công ty trong nước khiến họ phải hoạt động hiệu quả hơn. Để biến cơ chế, chính sách của Uzbekistan phù hợp với thông lệ quốc tế, ngoài các biện pháp tạo điều kiện gia nhập thị trường cho các lực lượng mới thì cần phải có chính sách không phân biệt đối xử đối với nhà đầu tư nước ngoài; từ bỏ các biện pháp đầu tư gắn với thương mại hiện có (ví dụ hạn chế nội địa, yêu cầu về năng lực xuất khẩu và hạn chế sử dụng ngoại hối); tự do chuyển giao các khoản liên quan đến đầu tư (ví dụ lợi nhuận, nhuận bút); áp dụng trọng tài quốc tế trong tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư; và áp dụng tiêu chuẩn luật quốc tế trong thu hồi tài sản.
Chính sách công nghiệp
Chính sách này hiện nay chưa hài hòa với các mục tiêu trong chính sách cạnh tranh. Chính sách cạnh tranh của Chính phủ đặt trọng tâm vào việc phát huy hơn nữa vai trò của các lực lượng thị trường trong nền kinh tế, còn chính sách công nghiệp vẫn mang nặng tính chất hành chính và kiểm soát thị trường. Uzbekistan đã có kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cạnh tranh trong khu vực sản xuất rượu cô nhắc (hay còn gọi là phi độc quyền hóa). Điểm nổi bật của kế hoạch này là việc thay đổi có chủ đích trong sản xuất và thị phần của những nhà sản xuất khác nhau trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, vẫn còn những dấu hỏi vai trò của các lực lượng thị trường trong cơ cấu của lĩnh vực này mà các nhà hoạch định chính sách đưa ra.
Ý nghĩa đối với Việt Nam
Những điểm tương đồng giữa Uzbekistan và Việt Nam về kinh tế
Cũng giống như hầu hết các nước thuộc khối XHCN trước kia, Uzbekistan và Việt Nam đều chuyển đổi mô hình kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường. Một điểm tương đồng đáng chú ý, đó là cả hai nước đều thực hiện chuyển đổi từng bước và thận trọng để tránh đổ vỡ.
Các DNNN ở Uzbekistan và Việt Nam đều được cổ phần hóa. Tại Việt Nam, các DNNN được chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc các tập đoàn có vốn nhà nước. Nhà nước nắm giữ một phần hoặc toàn bộ vốn của các tập đoàn và công ty này.
Doanh nghiệp nhà nước và nguy cơ gây ra cạnh tranh không công bằng và hoạt động kém hiệu quả.
Tại Việt Nam, những tập đoàn và tổng công ty mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (theo khoản 2 Điều 9 Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày 29/9/2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp). Đây hầu hết là những lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế, đòi hỏi vốn lớn nên cần tiềm lực tài chính của Nhà nước. Những tập đoàn, tổng công ty này một thời là trụ cột của nền kinh tế, cung cấp hàng hóa và dịch vụ mà khu vực tư nhân không đủ khả năng cung cấp. Tuy nhiên, một số DN đi chệch hướng, đầu tư ngoài ngành, sử dụng lợi thế sẵn có của mình để tạo ra sự cạnh tranh không công bằng giữa các DN, đồng thời hoạt động kém hiệu quả.
Một số ví dụ như Tập đoàn điện lực (EVN) đầu tư vào viễn thông với thương hiệu EVN Telecom, được sử dụng các tuyến cáp quang trên đường dây 500kV, 220kV, 110kV đầu tư bằng nguồn vốn dự án điện, hạ tầng cột điện treo cáp viễn thông, tận dụng đất đai và phòng ốc sẵn có của ngành Điện lực để cải tạo hoặc xây mới showroom bán hàng hoặc làm phòng máy cùng đội ngũ nhân viên vừa là khách hàng sử dụng dịch vụ của ngành này. Do đó, đã tạo ra lợi thế rất lớn cho EVN Telecom khi tham gia thị trường viễn thông, vì họ được hưởng hạ tầng sẵn có còn các DN khác thì phải tự xây dựng hạ tầng từ đầu. Nhưng chỉ sau 5 năm kinh doanh viễn thông, EVN Telecom đã tiến đến bờ vực phá sản. Cuối năm 2011, Chính phủ đã phải điều chuyển nguồn vốn, cơ sở vật chất và con người EVN Telecom sang để Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) quản lý với mục đích bảo đảm quyền lợi cho khách hàng và việc làm cho nhân viên EVN Telecom.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam PVN đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng, cụ thể là Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu GPBank. Việc PVN tham gia vào lĩnh vực ngân hàng cũng tạo ra sự cạnh tranh không công bằng khi mà họ nắm trong tay lợi thế sẵn có là nguồn vốn khổng lồ. Tuy nhiên, do tham gia vào một lĩnh vực không thuộc sở trường của mình, ngân hàng này hoạt động yếu kém và bị quốc hữu hóa với việc ngân hàng nhà nước mua lại với giá 0 đồng vào năm 2015.
Ngoài ra, còn một số DN đầu tư khác như Tập đoàn Xăng dầu Petrolimex góp vốn vào ngân hàng PG Bank; Tổng công ty Viễn thông MobiFone mua lại truyền hình AVG; Bảo hiểm xã hội cho ALCII vay và bị mất vốn…
Một số điều cần chú ý về hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
Thứ nhất, cần tách bạch giữa chức năng QLNN và chức năng kinh doanh: việc các bộ, ngành quản lý các DN và đơn vị sự nghiệp có thể gây ra tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Bộ chủ quản có thể sử quyền lực ban hành chính sách (thông tư) để “ưu ái” cho đơn vị của mình. Đặc biệt, hiện nay, các DN và đơn vị sự nghiệp được giao quyền tự chủ ngày càng tăng, vì vậy, cần có cơ chế để tránh việc bộ chủ quản sử dùng quyền lực chính sách để làm lợi cho đơn vị, nhất là với các hoạt động mang tính kinh doanh. Có thể xem xét tách các DN ra khỏi bộ chủ quản để bộ chỉ làm công việc thuần túy là quản lý nhà nước.
Thứ hai, cần hạch toán đúng và đủ chi phí cung ứng dịch vụ ở các đơn vị sự nghiệp. Hiện tại, ở Việt Nam, các bộ, ngành đều có đơn vị sự nghiệp, chẳng hạn như: Bộ Công Thương quản lý Tập đoàn Điện lực EVN. Các cơ sở này đều tham gia cung ứng dịch vụ, vì vậy, việc cung ứng dịch vụ mang tính kinh doanh của các đơn vị sự nghiệp (ngoài nhiệm vụ chính trị của đơn vị đó) cần được hạch toán đúng và đủ chi phí để tránh việc sử dụng tài sản công để tạo ra lợi nhuận riêng, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa DN khu vực công và DN khu vực tư.
Thứ ba, các DNNN không đầu tư ngoài ngành mà tập trung vào lĩnh vực sản xuất – kinh doanh chính để tận dụng lợi thế sẵn có của mình, tránh dàn trải hoặc đầu tư vào những lĩnh vực không có thế mạnh dễ gây thua lỗ, mất vốn như trong thời gian vừa qua.