Pháp luật về kiểm soát chất thải nhựa nguy hại: Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện

(Quanlynhanuoc.vn) – Việt Nam là một trong những quốc gia đang có lượng chất thải nhựa nói chung và chất thải nhựa nguy hại nói riêng thải ra môi trường khá lớn, gây ô nhiễm, tổn hại cho hệ sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cuộc sống của con người. Bài viết phân tích thực trạng kiểm soát chất thải nhựa nguy hại, qua đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật để kiểm soát chất thải nhựa nguy hại ở Việt Nam hiện nay.
Ảnh minh họa (internet).
Thực trạng pháp luật về kiểm soát chất thải nhựa nguy hại ở Việt Nam

Theo khoản 20 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020: “chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây nhiễm độc hoặc có đặc tính nguy hại khác”. Như vậy, có thể hiểu, chất thải nhựa nguy hại là “chất thải nhựa có chứa các đặc tính nguy hại theo quy định của pháp luật với đặc tính tồn tại dưới dạng vật liệu nhựa, thời gian phân hủy lâu, tiềm ẩn nguy cơ gây tổn hại lớn tới môi trường tự nhiên và chất lượng cuộc sống của con người”.

Kiểm soát chất thải nhựa nguy hại là “hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức, cá nhân nhằm phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm môi trường do chất thải nhựa nguy hại gây ra; khôi phục và cải thiện chức năng, tính hữu ích của môi trường tự nhiên nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người”.

Thứ nhất, quy định pháp luật về giảm thiểu phát sinh chất thải nhựa nguy hại. Hiện nay, yêu cầu về quản lý chất thải nói chung và chất thải nhựa nguy hại nói riêng được quy định tại khoản 4, 5 Điều 72 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Trong đó, yêu cầu các tổ chức và cá nhân làm phát sinh chất thải ra môi trường có trách nhiệm giảm thiểu việc phát sinh đó, như:

(1) Thực hiện các hoạt động tái chế, giảm thiểu chất thải nhựa nguy hại ra môi trường theo quy định của pháp luật. So với Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường năm 2022 quy định cụ thể hơn về khuyến khích việc tái chế, tái sử dụng chất thải nhựa, trong đó có chất thải nhựa nguy hại nhằm giảm thiểu số lượng chất thải nhựa nguy hại phát sinh ngoài môi trường. Nhà nước khuyến khích việc tái sử dụng, tái chế chất thải nhựa nguy hại phục vụ hoạt động sản xuất hàng hóa, vật liệu xây dựng, công trình giao thông; có chính sách thúc đẩy tái sử dụng, tái chế chất thải nhựa. Đặc biệt, trong nguyên tắc bảo vệ môi trường của Luật Bảo vệ môi trường năm 2022 đã khẳng định “nguyên tắc tăng cường tái sử dụng, tái chế chất thải để khai thác giá trị tài nguyên của chất thải”1.

(2) Quy định về tăng cường trách nhiệm của tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh làm phát sinh chất thải nhựa nguy hại ra môi trường. Để hạn chế việc thải bỏ chất thải nhựa, bao gồm chất thải nhựa nguy hại ra ngoài môi trường, Điều 54 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định cụ thể về trách nhiệm tái chế của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu và được hướng dẫn cụ thể tại mục 1 Chương VI Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ. Vấn đề này được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đối với 5 nhóm ngành hàng là: pin và ắc quy, điện và điện tử; săm lốp, dầu nhờn, ô tô và xe máy hiện đang là đối tượng thực hiện EPR (EPR là cách tiếp cận chính sách môi trường, theo đó trách nhiệm của nhà sản xuất một loại sản phẩm được mở rộng tới giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm đó2) theo Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ về thu hồi sản phẩm thải bỏ. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện nay không đặt ra tỷ lệ tái chế bắt buộc nên các doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm để tuân thủ.

(3) Quy định về khuyến khích phát triển sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra thuật ngữ “sản phẩm thân thiện môi trường”, đây là thuật ngữ lần đầu tiên được định nghĩa ở cấp độ quốc tế tại Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (United Nations Conference on Trade and Development – UNTAD) vào năm 1995. Theo đó, sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường được hiểu là các sản phẩm, dịch vụ mà quy trình sản xuất, sử dụng, thải bỏ bảo đảm không gây tổn hại tới môi trường, giảm thiểu các tác động tiêu cực tới chất lượng môi trường3. Tính chất “thân thiện với môi trường” được thể hiện trong toàn bộ quy trình từ việc sản xuất dựa trên các nguyên vật liệu thân thiện với môi trường, quá trình sản xuất sử dụng công nghệ thân thiện môi trường, áp dụng quy trình sản xuất thân thiện môi trường nhằm khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên tiết kiệm, hiệu quả, từ đó làm giảm phát thải ra ngoài môi trường, hạn chế ô nhiễm trong quá trình vận chuyển, xử lý, tiêu hủy, thải bỏ, trong đó bao gồm kiểm soát hiệu quả hoạt động phát sinh chất thải nhựa nguy hại.

(4) Quy định về hạn chế nhập khẩu sản phẩm nhựa và phế liệu nhựa từ nước ngoài. Theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nhà nước nghiêm cấm hành vi nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh chất thải, trong đó bao gồm chất thải nhựa từ nước ngoài dưới mọi hình thức, đặc biệt đối với loại chất thải nhựa nguy hại vốn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe con người4. Mục đích là nhằm hạn chế nhập khẩu sản phẩm nhựa và phế liệu nhựa từ nước ngoài nhất là theo con đường phi chính thống; phòng ngừa và giảm thiểu việc phát sinh chất thải nhựa, trong đó có chất thải nhựa nguy hại. Bởi vì tính chất gây nguy hại của chất thải nhựa có thể tiềm ẩn trong các loại hàng hóa, sản phẩm nhựa, phế liệu nhựa phục vụ cho hoạt động sản xuất – kinh doanh. Trải qua quá trình sử dụng, bị biến đổi, các đặc tính gây hại của sản phẩm nhựa, phế liệu nhựa phát sinh và làm tăng nguy cơ về việc gia tăng khối lượng chất thải nhựa nguy hại trên thực tế.

Thứ hai, quy định pháp luật về khai báo, phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển chất thải nhựa nguy hại.

(1) Về hoạt động khai báo, phân loại: theo quy định tại Điều 83 Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, chủ nguồn thải chất thải nguy hại có trách nhiệm khai báo khối lượng, loại chất thải nguy hại trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép môi trường hoặc nội dung đăng ký môi trường.

(2) Trong hoạt động thu gom, lưu giữ chất thải nhựa nguy hại: pháp luật cũng quy định cụ thể về các yêu cầu trong hoạt động lưu giữ chất thải nguy hại. Tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động thu gom sản phẩm, bao bì phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân, văn phòng cơ quan nhà nước, trường học, nơi công cộng thuộc danh mục sản phẩm, bao bì quy định tại Phụ lục XXII ban hành kèm theo Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ và danh mục chất thải nguy hại do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành để thực hiện trách nhiệm tái chế theo quy định tại mục 1 Chương VI Nghị định số 08/2022/NĐ-CP.

Chủ nguồn thải chất thải nhựa nguy hại chỉ được phép lưu giữ chất thải nhựa nguy hại không quá 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh. Trường hợp lưu giữ quá thời hạn nêu trên do chưa có phương án vận chuyển, xử lý khả thi hoặc chưa tìm được cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nhựa nguy hại phù hợp thì phải báo cáo định kỳ hằng năm về việc lưu giữ chất thải nhựa nguy hại tại cơ sở phát sinh với cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh bằng văn bản riêng hoặc kết hợp trong báo cáo môi trường định kỳ5.

(3) Trong hoạt động vận chuyển chất thải nhựa nguy hại, so với Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 thì Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung đối tượng được phép vận chuyển chất thải nhựa nguy hại ngoài cơ sở được cấp giấy phép môi trường có chức năng xử lý chất thải nhựa nguy hại phù hợp với loại chất thải cần vận chuyển, như: chủ nguồn thải chất thải nhựa nguy hại phải có phương tiện, thiết bị phù hợp đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, quy trình quản lý theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; các cơ sở trong khi vận chuyển chất thải nhựa nguy hại cần thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 4 Điều 69 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ. Các phương tiện, thiết bị thu gom, lưu giữ, vận chuyển chất thải nhựa nguy hại phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo quy định tại Điều 36, 37 Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.

Thứ ba, quy định pháp luật về xử chất thải nhựa nguy hại.

(1) Quy định pháp luật về trách nhiệm của chủ nguồn thải chất thải nhựa nguy hại. Trách nhiệm chính của chủ nguồn thải chất thải nhựa nguy hại được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 83 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Chủ nguồn thải chất thải nhựa nguy hại có quyền tự xử lý chất thải nhựa nguy hại tại cơ sở phát sinh chất thải nhựa nguy hại khi đáp ứng các yêu cầu theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ. Riêng đối với các cơ sở y tế có công trình xử lý chất thải y tế nguy hại đặt trong khuôn viên để thực hiện việc tự xử lý và xử lý chất thải nhựa y tế nguy hại cho các cơ sở y tế lân cận (mô hình cụm) theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì không được coi là cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại.

Việc vận chuyển chất thải nhựa y tế nguy hại từ các cơ sở y tế lân cận để xử lý theo mô hình cụm được thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân theo quy định tại khoản 4 Điều 83 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 hoặc theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đây cũng là một trong những điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 so với Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 nhằm làm giảm gánh nặng xử lý chất thải nhựa y tế tại các địa phương không có đủ điều kiện và chức năng để xử lý.

(2) Quy định pháp luật về trách nhiệm của chủ cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nhựa nguy hại

Cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nhựa nguy hại phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định tại khoản 3 Điều 84 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Giấy phép môi trường của cơ sở xử lý chất thải nhựa nguy hại phải có nội dung dịch vụ xử lý chất thải nguy hại theo quy định hoặc giấy phép môi trường thành phần là giấy phép xử lý chất thải nguy hại theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 42 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trừ trường hợp quy định tại khoản 19 Điều 168 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP.

Chủ cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nhựa nguy hại phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 85 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Điều 72 Nghị định số 08/2022/NĐ. Trong trường hợp chủ cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nhựa nguy hại có nhu cầu liên kết vận chuyển chất thải nhựa nguy hại không có trong giấy phép môi trường của mình và chuyển giao trách nhiệm xử lý cho chủ cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại khác có chức năng phù hợp để xử lý thì bên chuyển giao hoặc tiếp nhận phải gửi văn bản đề nghị kèm theo hợp đồng liên kết đến cơ quan cấp giấy phép môi trường để được xem xét, chấp thuận trước khi thực hiện. Bên nhận chuyển giao chất thải nhựa nguy hại để xử lý theo hợp đồng liên kết phải trực tiếp xử lí chất thải nhựa nguy hại đó và không được phép chuyển giao cho bên thứ ba để xử lý. Hình thức và các yêu cầu trong quá trình liên kết và chuyển giao được thực hiện theo quy định tại Điều 73 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP.

Một số hạn chế trong thực hiện pháp luật về kiểm soát chất thải nhựa nguy hại ở Việt Nam

Trên thực tế, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh các phương thức quan trắc và xử lý chất thải nhựa, trong đó có phương thức xử lý chất thải nhựa nguy hại tiên tiến, hiệu quả. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển thị trường dịch vụ môi trường về quản lý chất thải nhựa, bao gồm chất thải nhựa nguy hại ngày càng mạnh mẽ và nhanh chóng. Tuy vậy, việc thực hiện pháp luật về kiểm soát chất thải nhựa nguy hại ở Việt Nam hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định cần được hoàn thiện trong thời gian tới.

Một là, chưa có quy định pháp luật cụ thể về quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường về tái chế sản phẩm, đặc biệt đối với các sản phẩm nhựa.

Chất thải nhựa là một trong các loại chất thải có khả năng tái chế, tái sử dụng khá cao. Do đó, để hạn chế việc thải bỏ chất thải nhựa ra ngoài môi trường, Điều 54 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định cụ thể về trách nhiệm tái chế của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu. Quy định này nhằm mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất thông qua việc tác động làm thay đổi thói quen của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu trong sử dụng nguyên liệu và thiết kế sản phẩm để có thể giảm dần và tối ưu hóa chi phí thu gom cũng như tái chế sản phẩm, bao bì sau sử dụng, trong đó bao gồm các sản phẩm và bao bì làm từ nhựa. Từ đó, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu sẽ cân nhắc việc thay đổi các thiết kế sản phẩm, lựa chọn sản phẩm nhập khẩu theo hướng sản xuất sạch hơn, thân thiện với môi trường hơn để giảm thiểu chi phí thực hiện EPR trong tương lai.

Tuy nhiên, pháp luật môi trường Việt Nam hiện hành chưa có quy định cụ thể về hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường về việc tái chế các sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế. Cần nhận thức được rằng, quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường là các thông số kỹ thuật môi trường nhằm xác định cụ thể các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Do đó, việc thiếu sót trong quá trình xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường trong lĩnh vực này có thể gây cản trở trong việc áp dụng công cụ EPR một cách hiệu quả và thống nhất.

Hai là, tổ chức, cá nhân đầu tư các dự án thuộc ngành, nghề thu gom, xử , tái chế hoặc tái sử dụng chất thải, bao gồm chất thải nhựa nguy hại gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước.

Mặc dù pháp luật về môi trường ở Việt Nam đã có quy định cụ thể về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư về thuế, đất đai … dành cho các chủ thể thực hiện các dự án đầu tư thuộc ngành, nghề thu gom, tái chế, tái sử dụng và xử lý chất thải, bao gồm chất thải nhựa nguy hại. Tuy nhiên, do sự mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật về chính sách đầu tư dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các ưu đãi, hỗ trợ trên thực tế. Sự bất cập này dẫn tới tồn đọng một lượng lớn chất thải nhựa nguy hại không được xử lý do không thu hút được các thành phần kinh tế, đặc biệt các chủ thể có tiềm lực kinh tế lớn đầu tư kinh doanh; làm gia tăng nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do chất thải nhựa nguy hại gây ra. Từ đây, các mục tiêu về bảo đảm phát triển bền vững của Việt Nam sẽ gặp những khó khăn nhất định trong việc phải chi trả nhiều hơn cho các chi phí về xử lý chất thải nhựa nguy hại, tình trạng ô nhiễm môi trường, gia tăng các vấn đề về bảo đảm an sinh xã hội do ô nhiễm và suy thoái môi trường gây ra.

Ba là, ý thức của cộng đồng trong việc giảm thiểu, tái chế hoặc tái sử dụng, xử chất thải nhựa nguy hại còn hạn chế.

Xuất phát từ tính tiện lợi, rẻ, dễ sử dụng, các sản phẩm, bao bì từ nhựa đã và đang ngày càng trở nên phổ biến trong cuộc sống hiện đại. Bên cạnh đó, tình trạng để lẫn chất thải nhựa nguy hại với chất thải nhựa thông thường đã làm tăng nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, gia tăng chi phí mà Nhà nước phải thực hiện chi trả trong công tác quản lý chất thải, đe dọa trực tiếp tới việc bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Điều này đòi hỏi ý thức từ cộng đồng dân cư trong các khâu từ giảm thiểu, tái chế hoặc tái sử dụng, xử lý chất thải nhựa nguy hại.

Đề xuất kiến nghị hoàn thiện trong thực hiện pháp luật về kiểm soát chất thải nhựa nguy hại ở Việt Nam

Thứ nhất, cần phải tổ chức xây dựng và ban hành hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường về việc tái sử dụng sản phẩm, đặc biệt đối với các sản phẩm nhựa nhằm kiểm soát hoạt động giảm thiểu chất thải nhựa hiệu quả, thống nhất. Cụ thể: để tạo tính thống nhất, khả thi trong việc áp dụng các quy định pháp luật, trong thời gian tới cần ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường, quy chuẩn kỹ thuật môi trường về việc tái sử dụng, định danh cụ thể với từng loại sản phẩm, trong đó có sản phẩm nhựa để người tiêu dùng có thể tiếp cận và hiểu rõ việc tái sử dụng các sản phẩm nhựa. Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện các hoạt động phát triển cần linh hoạt và chủ động áp dụng giải pháp chuyển đổi số, ứng dụng mô hình kinh doanh dựa trên nền tảng số để thúc đẩy giảm thiểu phát sinh, tái sử dụng, phân loại thu gom, vận chuyển tái chế và xử lý chất thải rắn, trong đó bao gồm các chất thải nhựa.

Thứ hai, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố cần sớm hoàn thiện các quy định pháp luật về hướng dẫn phân loại chất thải tại nguồn, trong đó bao gồm chất thải nhựa nguy hại nhằm triển khai minh bạch, khả thi, hiệu quả pháp luật môi trường về kiểm soát chất thải nói chung và chất thải nguy hại nói riêng trên thực tế. Đồng thời, cần tổ chức thực thi có hiệu quả, minh bạch, thống nhất hệ thống pháp luật về giảm thiểu phát sinh chất thải nhựa nguy hại.

Cần xúc tiến việc xây dựng lộ trình về hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 về tuần hoàn nhựa để bảo đảm đạt được các mục tiêu trong quản lý chất thải nhựa, bao gồm chất thải nhựa nguy hại một cách thành công. Theo đó, các nội dung cần được cân nhắc để đưa vào hệ thống văn bản hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 về tuần hoàn nhựa bao gồm: chính sách nhằm giảm tiêu thụ nhựa; các mục tiêu bắt buộc về thu gom tái chế chất thải nhựa phải được điều chỉnh phù hợp dựa trên mức độ có thể tái chế của các loại nhựa và sản phẩm, phù hợp với cơ sở hạ tầng tái chế của địa phương; mức phí có điều chỉnh cho các loại bao bì nhựa khác nhau dựa trên khả năng tái chế với mức phí cao hơn cho bao bì có giá trị tái chế thấp hơn và không tái chế được.

Thứ ba, cần nâng cao khả năng tiếp cận với chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào các dự án thuộc ngành, nghề thu gom, tái chế, tái sử dụng và xử lý chất thải nhựa, bao gồm chất thải nhựa nguy hại. Theo đó, cần thiết phải rà soát và giải quyết các mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống văn bản pháp luật về đầu tư và giữa pháp luật đầu tư với pháp luật môi trường. Bên cạnh đó, cần xây dựng năng lực đánh giá tác động kinh tế – xã hội của các ngân hàng trong nước để các ngân hàng có thể thực hiện tốt hơn việc đánh giá các dự án tái chế nhựa khả thi và có khả năng cấp vốn. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bên liên quan cũng cần khuyến khích các ngân hàng trong nước xây dựng các sản phẩm tài chính xanh được thiết kế cụ thể để quản lý rủi ro liên quan đến tái chế và các dự án khác về tuần hoàn nhựa, trong đó có chất thải nhựa nguy hại.

Thứ tư, cần phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân về chất thải nhựa nguy hại nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung. Đồng thời, thực hiện nghiêm túc thực hiện các hoạt động thu gom, phân loại chất thải nhựa, xử lý chất thải nhựa, trong đó có chất thải nhựa nguy hại bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Cần khuyến khích và nhân rộng các mô hình tái sử dụng các loại sản phẩm nhựa, hạn chế sử dụng túi nilon không thân thiện môi trường, sử dụng bình thủy tinh đựng nước thay chai nhựa, thải bỏ chất thải nhựa đúng nơi quy định, chủ động phân loại chất thải, hạn chế tối đa việc sử dụng đồ nhựa một lần.

Chú thích:
1. Mục 4, Điều 4 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
2. EPR là gì. https://epr.monre.gov.vn, ngày 17/02/2022.
3. Điều 145 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
4. Khoản 6, Điều 6 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
5. Khoản 2 Điều 83 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
2. Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu.
3. Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
4. Nghị định số 45/2022/NĐ-CP ngày 07/7/2022 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
5. Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
6. Sự nguy hại của rác thải nhựa với đời sống con người. https://suckhoedoisong.vn, ngày 18/8/2022.
PGS.TS. Lưu Ngọc Tố Tâm
Học viện Chính trị Khu vực 2