Vận dụng sáng tạo những luận điểm về chính trị của V.I.Lênin thời kỳ sau Cách mạng tháng Mười Nga ở Việt Nam giai đoạn hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Sức sống lâu bền, những giá trị lý luận và thực tiễn trong tư tưởng chính trị của Lênin có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam trên con đường xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới hiện nay. Bài viết cung cấp những phát triển mới về cải tiến bộ máy nhà nước; về xây dựng đảng; công tác tổ chức cán bộ, thanh tra, kiểm tra trong tư tưởng chính trị của V.I.Lênin thời kỳ sau cách mạng tháng Mười Nga và sự vận dụng sáng tạo những luận điểm đó vào bối cảnh mới của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
V.I.Lênin (1870 – 1924). Ảnh: tuyengiao.vn.
Những phát triển trong luận điểm về chính trị của V.I.Lênin thời kỳ sau cách mạng tháng Mười Nga

Sự phát triển luận điểm của V.I.Lênin về chính trị thời kỳ sau Cách mạng tháng Mười Nga tập trung chính vào những vấn đề về Nhà nước và xây dựng đảng. Theo đó, những vấn đề về Đảng cầm quyền, về Nhà nước (đặc biệt là vấn đề quản lý nhà nước, cải cách bộ máy nhà nước, công tác tổ chức cán bộ, công chức nhà nước….) luôn được Lênin quan tâm và đề cập trong nhiều bài viết và các tác phẩm của mình. Tư tưởng về xây dựng Nhà nước được Lênin thể hiện đậm nét nhất thời kỳ sau cách mạng tháng Mười Nga, đó là trong tác phẩm “Chúng ta phải cải tổ bộ dân ủy thanh tra công nông như thế nào” và “Thà ít mà tốt”.

Để cải tiến bộ máy nhà nước Xô-viết, V.I.Lênin đã chọn khâu trọng tâm là cải tổ lại Bộ dân ủy thanh tra công nông, đề ra kế hoạch cải tiến Bộ này:

Thứ nhất, cải tổ bộ máy cơ hữu của Bộ dân ủy thanh tra công nông (giảm số lượng cán bộ, nhân viên của Bộ này (cụ thể, lúc đó, Lênin chỉ định rút xuống còn 300 hay 400 nhân viên). Các nhân viên phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn: trung thực; hiểu biết bộ máy nhà nước; thông hiểu những nguyên tắc tổ chức khoa học về lao động nói chung, nhất là về công tác quản lý, công tác văn phòng… Các nhân viên phải được kiểm tra, sát hạch thật nghiêm ngặt).

Thứ hai, hợp nhất Bộ dân ủy thanh tra công nông sau khi đã được cải tổ với Ban kiểm tra trung ương (ích lợi của việc hợp nhất: làm cho Bộ dân ủy thanh tra công nông vì thế mà có được một uy tín rất cao; Ban Chấp hành trung ương cùng với Ban kiểm tra trung ương sẽ hoàn toàn trở thành một hội nghị tối cao của Đảng. Sau khi hợp nhất thì Bộ trưởng Bộ dân ủy thanh tra công nông vẫn là bộ trưởng dân ủy; có nhiệm vụ lãnh đạo hoạt động của toàn bộ Bộ dân ủy thanh tra công nông, kể cả hoạt động của tất cả các ủy viên Ban kiểm tra trung ương là những ủy viên sẽ được coi là “được biệt phái” sang cho bộ trưởng dân ủy sử dụng. Số nhân viên của Bộ dân ủy thanh tra công nông sẽ làm thư ký cho những ủy viên khác trong Bộ dân ủy thanh tra công nông, cũng như cho những ủy viên mới của Ban kiểm tra trung ương. Những người này phải có tiêu chuẩn cụ thể và phải thanh tra cẩn thận, đặc biệt là phải có chế độ đãi ngộ thật tốt hơn để họ làm việc hiệu quả).

Ngay tiếp sau tác phẩm trên, Lênin đã viết “Thà ít mà tốt” – là một cống hiến lý luận to lớn của Lênin về xây dựng Nhà nước. Theo đó, Lênin đã chỉ rõ những quan điểm sai trái, hấp tấp của một số cán bộ, đảng viên Nga cho rằng “đã xây dựng được một bộ máy thật sự mới và thật sự xứng đáng danh hiệu là bộ máy xã hội chủ nghĩa, bộ máy Xô-viết” và Người khẳng định việc cải tiến bộ máy nhà nước là nhằm bảo đảm cho nhà nước Xô-viết thực sự xứng đáng với danh hiệu là bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có đầy đủ năng lực quản lý đưa nhà nước Nga từ sản xuất nhỏ, yếu kém, nông nghiệp lạc hậu tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trong đó, phải tuân theo quy tắc: “Thà ít mà tốt. phải tuân theo quy tắc này: thà mất hai năm hay thậm chí ba năm còn hơn là hấp tấp vội vàng mà không có một chút hy vọng nào đào tạo được nhân liệu tốt”1. Phải thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt: “Chúng ta phải thực hành tiết kiệm tột mức trong bộ máy nhà nước của chúng ta. Chúng ta phải bài trừ mọi vết tích lãng phí mà nước Nga quân chủ và bộ máy quan liêu tư bản chủ nghĩa của nó đã để lại đầy rẫy”2.

Sự phát triển trong một số luận điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng thời kỳ sau cách mạng tháng Mười Nga tập trung vào vai trò quan trọng, quyết định của tổ chức Đảng, đội tiền phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, đối với thắng lợi cuối cùng của cuộc đấu tranh cách mạng này. Sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga, đảng của giai cấp công nhân đã trở thành đảng cầm quyền. V.I.Lênin chỉ ra rằng, đảng Mác-xít, đảng của giai cấp công nhân hoàn toàn xứng đáng là lực lượng lãnh đạo và hướng dẫn cuộc đấu tranh đến thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. “Chỉ có đảng của giai cấp công nhân tức là Đảng Cộng sản, mới có thể tập hợp, giáo dục, tổ chức đội tiên phong của giai cấp vô sản và của tất cả quần chúng lao động, chỉ có đội tiên phong ấy mới có thể chống lại nổi những sự dao động tiểu tư sản…”3.

Vận dụng sáng tạo những luận điểm của V.I.Lênin về cải cách nhà nước thời kỳ sau cách mạng tháng Mười Nga ở Việt Nam hiện nay

Theo V.I.Lênin, xây dựng nhà nước không phải là công việc đơn giản, vội vàng hấp tấp được mà là công việc đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có quyết tâm cao, lộ trình, bước đi phù hợp. Vì vậy, Đảng phải luôn luôn giáo dục nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong, gương mẫu, phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên. Lấy xây dựng Đảng vững mạnh làm cơ sở cho xây dựng bộ máy nhà nước và các đoàn thể chính trị – xã hội.

Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Để thành công, chúng ta vừa phải đứng vững trên lập trường lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa phải kế thừa được những thành quả xây dựng nhà nước pháp quyền đã có trên thế giới, vừa phải xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng của Lênin về nhà nước được hình thành trên cơ sở sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về nhà nước vào điều kiện cụ thể của nước Nga và tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XX. Những tư tưởng ấy chứa đựng nhiều giá trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Một là, Nhà nước pháp quyền XHCN mang những đặc điểm chung nhất định. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải phản ánh được những đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam, vừa có những điểm tương đồng, vừa có những nét khác biệt với nhà nước pháp quyền ở các quốc gia – dân tộc khác. Ngay cả những nét tương đồng hay khác biệt ấy cũng chỉ có được và hiểu được nếu xuất phát từ hiện thực xã hội Việt Nam chứ không phải là được áp đặt từ bên ngoài vào.

Hai là, Nếu chúng ta thừa nhận có nhà nước pháp quyền tư sản thì có nghĩa là nhà nước pháp quyền đó, xét về bản chất, là công cụ quyền lực trong tay giai cấp tư sản và trước hết phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản.

Như vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đồng nghĩa với việc chúng ta phải tính tới những đặc trưng nhất định để phân biệt được nhà nước pháp quyền với các mô hình hay các cách thức tổ chức nhà nước khác. Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân xây dựng nên phải phục vụ cho lợi ích của Nhân dân. Đó là đặc trưng, là bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Ba là, nền tảng và nội dung của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải là dân chủ. Quyền lực của Nhân dân được luật hóa, được bảo đảm thực thi bằng hệ thống chính trị, trong đó trước tiên và trực tiếp là bộ máy nhà nước.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, trước hết phải bảo đảm tốt khâu luật hóa quyền lực của Nhân dân. Hoàn thiện Hiến pháp, hệ thống pháp luật chính là một thước đo sự hình thành nhà nước pháp quyền, trong đó nội dung của luật luôn nhằm hướng đến bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của Nhân dân lao động. Hơn thế, để hình thành nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa, khâu bảo đảm thực thi quyền lực của Nhân dân dưới hình thức luật cũng hết sức quan trọng.

Từ những quan điểm của V.I.Lênin về vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới của cách mạng, vai trò của một đảng cầm quyền, chúng ta có thể rút ra được những kết luận có tính phương pháp luận cho sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn Việt Nam như sau:

Thứ nhất, Đảng “phải nhận thức được vị trí của mình” trong toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Đảng đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, bảo đảm tính nguyên tắc bất di bất dịch mục tiêu cuối cùng vì lợi ích giai cấp. Phương thức lãnh đạo, chỉ đạo phải bảo đảm tính mềm dẻo, năng động trong những sách lược, phù hợp với tình hình thực tế khách quan, phù hợp với xu thế chung, bảo đảm yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, đáp ứng những nhu cầu trước mắt chính đáng của Nhân dân.

Thứ hai, kiên quyết giữ gìn và củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

Thứ ba, Đảng lựa chọn những đại biểu ưu tú nắm giữ những chức vụ cao nhất của cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động lập pháp cũng như hành pháp, tư pháp.

Thứ tư, Đảng gương mẫu chấp hành, thượng tôn pháp luật chứ không được tự cho mình đứng ở ngoài luật pháp, đứng trên luật pháp. Chỉ có như vậy, đảng cầm quyền mới nêu được tấm gương chấp hành pháp luật, tạo được uy tín trong lãnh đạo của mình. Tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật chính là làm theo ý chí của Đảng, không tuân thủ luật pháp chính là không tuân thủ ý chí của Đảng, phá hoại chính lợi ích của Đảng.

Thứ năm, Đảng luôn luôn phải tự đổi mới mình, phát hiện ra những thiếu sót, bất hợp lý trong quá trình lãnh đạo để sửa đổi kịp thời, đổi mới kịp thời. Chính việc sửa đổi những cái bất hợp lý trong quá trình lãnh đạo hệ thống chính trị, trong đó có Nhà nước sẽ làm cho hiệu quả lãnh đạo của Đảng tăng lên, củng cố thêm lòng tin và sự ủng hộ tuyệt đối của Nhân dân đối với Đảng, địa vị, vai trò lãnh đạo của Đảng sẽ ngày càng thêm vững vàng. Muốn sửa đổi được những bất hợp lý, phải phát hiện ra được những sai sót dẫn đến sự bất hợp lý đó và phải có biện pháp đúng đắn để sửa chữa sai lầm. Đảng cần phải gương mẫu trong tự phê bình và phê bình.

Thứ sáu, Đảng cần phải rèn luyện giáo dục từng đảng viên dù đảng viên ở cương vị phụ trách hay nhân viên, phải tuân theo đúng nguyên tắc, giữ vững bản lĩnh chính trị và đạo đức của người đảng viên trong khi thừa hành nhiệm vụ, phải hết lòng, hết sức phục vụ lợi ích của giai cấp, của Nhân dân. Đảng viên cần phải luôn luôn nâng cao tinh thần phấn đấu, tu dưỡng, học tập đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Theo V.I.Lênin, “không gì có thể làm tăng thêm uy tín của Đảng Cộng sản …một khi thấy rằng những đảng viên Đảng Cộng sản đang cầm quyền đã gánh lấy những nghĩa vụ của mình”4.

Thứ bảy, Đảng cần phải củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, giữ mối liên hệ khăng khít, hữu cơ, máu thịt với quần chúng nhân dân, “lấy dân làm gốc”. Chỉ có dựa vào dân, chăm lo cho lợi ích của dân thì Đảng mới có thể củng cố được uy tín chính trị, giữ vững được vị trí vai trò lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, trong đó có Nhà nước.

Kết luận

Công cuộc đổi mới đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đời sống đại đa số quần chúng nhân dân được nâng lên, vị thế của đất nước ngày càng được khẳng định trong khu vực và thế giới. Đất nước ổn định và đang bước sang một thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Có được những thành tựu đó chính là Đảng và Nhà nước đưa ra những chủ trương đúng đắn và những quyết sách trong sự nghiệp đổi mới; xử lý linh hoạt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Về căn bản lấy đổi mới kinh tế làm nền tảng và đi trước, trên cơ sở đó, từng bước đổi mới chính trị. Về phương diện cụ thể có những bước đi cụ thể riêng, không nhất thiết cứng nhắc, một chiều. Theo đó, bằng sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong thực tiễn đã chứng minh là sự lựa chọn sáng suốt, những tư tưởng của V.I.Lênin, thời kỳ sau cách mạng tháng Mười Nga (thời kỳ đánh dấu những bước phát triển mạnh mẽ trong quan điểm của Lênin về kinh tế và chính trị) đã được vận dụng và phát triển sáng tạo ở Việt Nam. Có thể coi đây là kim chỉ nam cho mọi hành động, vũ khí lý luận sắc bén để Đảng và Nhà nước nhận thức, làm rõ bản chất của các quá trình và hiện tượng kinh tế – xã hội, góp phần làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối chính sách phát triển đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chú thích
1, 2. V.I.Lênin. Toàn tập. Tập 45. NXB Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1978, tr. 445, 458 – 459.
3. V.I.Lênin. Toàn tập. Tập 43. NXB Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1978, tr. 112 – 113.
4. V.I.Lênin. Toàn tập. Tập 39. NXB Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1979, tr. 428.
TS. Lê Quang Hòa
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
ThS. Mai Văn Trụ
Trường Chính trị tỉnh Ninh Thuận